Phòng
hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tắm trong ánh nắng dịu dàng của buổi
sáng. Những tủ đựng đồ bằng gỗ chạm trổ tinh vi đứng dọc bên tường, ở giữa
chúng tôi có thể thấy nhiều bức tượng bằng đồng và vô số sản phẩm thủ công tôn
giáo. Cả kho kinh điển Tây Tạng gói trong những tấm vải vàng và gấm thêu kim
tuyến chồng chất đầy những kệ sách được làm theo truyền thống. Trung tâm của
phòng được chiếm ưu thế bởi một bàn thờ trang trí công phu. Một bức tượng - cao
không quá hai bộ được đặt trong một ngôi điện nho nhỏ bằng gỗ và thủy tinh - thật
là một nơi đáng ngưỡng mộ. Không gian trầm lặng tuyệt đẹp, một sự thanh lịch
bình dị.
Tenzin
Taklth ra dấu cho tôi ngồi gần cửa ra vào trên một tấm thảm Tây Tạng vuông nhỏ.
Tôi xếp đặt máy ghi hình trên một giá ba chân. Không nói tiếng nào, Đức Đạt Lai
Lạt Ma đi ra phía sau chiếc bàn gỗ. Ngài thả chân ra khỏi đôi dép và ngồi trong
tư thế hoa sen, tựa lưng vào bức tường
ván ép. Ngài sửa y áo, nhắm đôi mắt lại, và bắt đầu hành thiền. Tôi khởi động máy quay phim và
nghe tiếng động nhè nhẹ của máy khi nó ghi hình tu sĩ Tây Tạng trong đĩa kỷ thuật
số digital.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói với tôi vài vấn đề về thời khóa buổi sáng của ngài:
"Ngay khi thức dậy, hàng ngày đúng 3:30, tôi trì tụng vài mật ngôn hay những
lời cầu nguyện. Những tư tưởng đầu tiên của tôi: Đức Phật và những lời dạy của
Ngài về từ bi, giáo huấn duyên khởi. Đó là những gì tôi luôn luôn làm - suốt
ngày còn lại được hướng dẫn phù hợp với hai điều này: lòng vị tha và duyên khởi.
Sau đó là lễ phủ phục. Tôi nghĩ tất cả việc lễ phủ phục và tập thể dục, khoảng
ba mươi phút. Tôi luôn luôn tắm sau đó. Sau đó khoảng 5 giờ hay đôi khi 4:40 là
điểm tâm. Người em trai của tôi luôn luôn đùa với tôi rằng: mục tiêu thật sự của
việc thức dậy sớm là để điểm tâm. Thông thường, như một tu sĩ Phật Giáo, không
ăn chiều."
Khi
Đức Đạt Lai Lạt Ma an trú trong việc hành thiền, đôi mắt của tôi điều chỉnh cho
thích hợp với ánh sáng dịu xuống. Ngay thẳng từ tôi qua căn phòng là một bức
tranh tường được lồng trong một chiếc tủ gỗ và kính. Nó cho thấy một hình tượng
Đức Phật vận y màu hoàng thổ giản dị; phía sau là những dãy núi xanh rì và những
dòng suối uốn khúc. Đầu của Đức Phật y theo những tỉ lệ truyền thống, với đôi
tai dài và nhục kế biểu thị sự Giác Ngộ. Ngài có một cái nhìn vô định - giữa
mĩm cười và ung dung. Toàn bộ khuôn mặt Ngài - gò má mũm mĩm, cằm nhỏ, khóe mắt
- hàm súc sự hoan hỉ chớm nở.
Việc
hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma rõ ràng đi vào một thể trạng nội tại sâu xa
nào đó rất nhanh. Không điều gì hiện hữu bên ngoài ngài - không chiếc phòng,
không Tenzin và tôi chỉ ngồi cách vài bộ. Kiểu mẫu hành thiền của ngài thì khác
với một thiền sư. Giống như nhiều lạt ma Tây Tạng, ngài không ngồi im như đá tảng
và cứng nhắc. Luôn luôn có những chuyển động nhẹ. Ngài xoay bên này bên nọ;
ngài dừng lại đứng yên hoàn toàn trong một lúc; sau đó là một mật ngôn ngắn thì
thầm qua hơi thở ngài, một cánh tay đưa ra phía sau cổ để gãi một vết ngứa. Nếu
tôi chưa từng xem ngài an trú trong thiền sâu lắng trước đây, thì tôi thề sẽ
cho rằng ngài đang trạo cử bồn chồn.
Đột
nhiên, đôi mắt của ngài quay trở lại
trong hố mắt và mi mắt mở hé rung rinh một cách vô tình. Chuyển động riêng biệt
đang quấy rầy.
Bàn
làm việc của Đức Đạt Lai Lạt Ma thì lộn xộn. Những kinh điển của ngài - hàng đống
sách vở chưa được đóng lại, một lục bình thủy tinh chưng hoa, một đèn bàn đưa
lên đưa xuống, và một tượng Phật nhỏ bằng đồng. Cũng có một con dao quân đội Thụy
Sĩ cao cấp, chen chúc nhau với nhiều công dụng, kế bên là một đồng hồ bàn với một
bức tượng nhỏ trên đỉnh. Bên trái của ngài là một tủ gỗ cao đến đầu gối phủ một
tấm giấy đỏ phía trên. Một tủ tương tợ khác, đặt phía bên phải trong phần lõm
nhỏ của vách tường. Chồng chất trên ấy là sách, kinh điển Tây Tạng, ba bình đựng
đầy bút mực và bút đánh dấu và một lọ thuốc bổ. Cao chót vót bên trên còn lại
là một bó hoa lụa vàng đỏ sum suê - hầu hết là hoa huệ và hoa hồng - ngập tràn
từ một chậu hoa bằng đá phiến xám. Chúng trông như thật một cách lạ kỳ, với những
giọt sương trên cánh hoa. Một dụng cụ điều khiển TV để bên cạnh.
Phòng
hành thiền là chỗ riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một nơi để quán chiếu cũng như
làm việc. Đó là một nơi mà ngài có thể thật sự một mình - ngài bàn bạc và chào
đón khách viếng trong tòa nhà hội kiến gần cửa ra vào của khu cư trú. Chính nơi
này, trong phòng này mà ngài huy động những nguồn lực nội tại - qua thiền tập,
qua đọc tụng lại những lời của các bậc thầy Tây Tạng từ xưa - để đạt tới tuệ
giác cần thiết để hướng dẫn chính ngài và dân tộc ngài qua những thời gian khó
khăn.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma lấy kính ra khi ngài hành thiền, và đó là vấn đề khi tôi lần đầu
tiên nhận thức tuổi tác của ngài một cách chính xác như thế nào. Tôi có thể thấy
không gian sâu thẩm phía sau đôi mắt ngài, nếp nhăn chạy thẳng từ xương gò má đến
cằm ngài. Vị lãnh tụ Tây Tạng lúc đó khoảng giữa tuổi sáu mươi.
Tôi
cảm thấy an lạc khi nhìn vào khuôn mặt Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nó quá tương phản với
tôi. Khuôn mặt ngài đầy những nếp nhăn, mỗi đường kể lên một câu chuyện gian
khó, đau khổ, hay sung sướng. Mặc dù tôi chỉ trẻ hơn ngài mười tuổi, nhưng bộ mặt
tôi tương đối nhẵn trơn, những nếp nhăn mới bắt đầu ló dạng. Khuôn mặt tôi thường
là nguồn gốc làm tôi bực tức lắm. Không phải bởi vì nó xấu xí hay chướng mắt,
nhưng bởi vì nó dường như luôn luôn ngủ. Nó không là một bộ mặt làm người ta có
thể gọi là sống động.
Tôi
lớn lên trong một gia đình Trung Hoa truyền thống. Biểu lộ công khai cảm xúc
không được khuyến khích. Có những thời khắc bất thường khi tôi cho thấy một niềm
vui thật sự - khi tôi nhận bao lì xì đỏ từ người chú thứ 9 của tôi nhân năm mới.
Tôi đã cười nhăn cả khuôn mặt ra. Và tôi cũng có thể biểu lộ một cơn giận cực độ
khi người em gái tôi liệng quyển truyện chưởng ưa thích của tôi ra cửa sổ.
Nhưng thường thường tôi nuôi dưỡng một khuôn mặt trung tính. Tôi thường tự ý thức,
và sự bảo vệ của tôi được liên tục. Có lẻ đó là tại sao tôi là một người chơi
bài xì cừ khôi ở trường đại học cộng đồng (college).
Giữ
bộ mặt trung tính phớt tỉnh thích hợp cho tôi đủ để sống hầu như cả đời tôi.
Nhưng trong những năm gần đây, tôi khám phá ra rằng tôi đã phải trả giá cho việc
đó. Qua năm tháng, năng lực trải nghiệm cảm xúc của tôi trở nên yếu kém. Điều
này đáng chú ý hơn cả khi mẹ tôi mất. Tôi thấy rằng tôi phải tập trung một cách
có ý thức những cảm giác đau buồn trong tang lễ của mẹ tôi. Tôi đã trở thành một
người Á châu tinh túy khó hiểu thấu được.
Tuy
nhiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma biểu hiện cả tâm hồn ngài trên mặt. Nhiều người đã
chú ý điều này về ngài, kể cả Paul Ekman, một giáo sư
tâm lý học và chuyên gia thế giới về những biểu lộ trên mặt.
Paul Ekman |
Ekman
là một người thành thạo về khuôn mặt con người. Ông đã nghiên cứu nó trong chi
tiết tỉ mỉ trong bốn thập niên. Trong nghiên cứu của ông, Ekman đã chia thành
những loại cơ mặt và nghiên cứu vấn đề chúng co rút và kéo giật như thế nào để
sinh ra khoảng bảy nghìn (7,000) biểu lộ khác nhau. Ông đã liên hệ đầy đủ ý
nghĩa nhất những thứ này đến những gì chúng biểu thị một cách cảm xúc. Trong tiến
trình, ông đã trở thành một điều tra viên về nói dối xuất sắc. Tiếp theo sau vụ
đánh bom 11 tháng Chín năm 2001, cơ quan CIA-FBI chống khủng bố đã mướn Ekman
như một cố vấn cho vấn đề điều tra nói dối như thế nào khi hỏi cung những nghi
can. Một trong những thứ mà ông đã dạy cho những nhân viên để tìm kiếm là những
biểu lộ rất vi tế - một chuyển động nhẹ của một cơ chân mày bên trong gọi là
"frontalis pas medialis" - cơ trán, thí dụ thế, là một biểu hiện của
sự buồn bả.
Ekman
đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên trong tháng Ba năm 2000 ở Dharamsala, tại
một hội nghị Tâm Thức và Đời Sống lần thứ Tám giữa những Phật tử và các nhà
khoa học phương Tây. Chủ đề của hội nghị là Những Cảm Xúc Tàn Phá. Trong quá
trình diễn biến của năm ngày chuyên sâu, các nhà tâm lý học có vô số cơ hội để
quán sát vị lãnh tụ Tây Tạng. Ekman lấy làm lạ rằng từ khi nghiên cứu về những
khuôn mặt đến giờ, ông chưa từng thấy một người nào như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Những
cơ mặt của ngài đầy sức sống và nhu nhuyến, chúng giống như thuộc về một người
nào đó khoảng độ tuổi đôi mươi.
Tại
sao có sự trái ngược nhau phi thường này? Ekman nghĩ là ông biết câu trả lời
này: Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng những cơ mặt mạnh mẽ hơn bất cứ người nào khác
mà ông từng biết. Và có sự chính xác trong cách Đức Đạt Lai Lạt Ma biểu lộ, hiếm
khi có bất cứ dấu hiệu lẫn lộn nào. Khi ngài vui vẻ, ngài vui vẻ một trăm phần
trăm. Không tình cảm nào khác chen lẫn vào để pha trộn cảm giác.
Ekman
ấn tượng với khuôn mặt của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một lý do khác. Với ngoại lệ
có thể của những đứa trẻ nào đó, thì khuôn mặt của vị lãnh tụ Tây Tạng là ngây
thơ chân thật nhất mà Ekman bắt gặp trong tất cả những thập niên nghiên cứu của
ông. Và giống như những đứa trẻ này, Đức Đạt Lai Lạt Ma hoàn toàn thoải mái với
sự biểu lộ cảm xúc của ngài. Ngài không hổ thẹn với những cảm giác của ngài,
ngài thấy không có lý do gì để tự ý thức hay e thẹn về chúng. Trong thời gian hội
nghị, một quan sát viên từ California đã nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng một trẻ
em ở Dharamsala đã chết sau khi bị một con chó dại tấn công. Mọi người hiện diện
thấy rõ ràng cảm giác đau buồn sâu sắc trên khuôn mặt của người Tây Tạng này. Điều
này là một liên hệ với Ekman. Ông không nghi ngờ gì rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma cảm
thấy mất mát thấm thiết giống như đứa con riêng của ngài đã bị liên hệ. Nhưng Ekman cũng ngạc
nhiên vì sự biểu lộ buồn thảm này chỉ hiện diện trong một thời gian ngắn. Trong
một vài thời khắc, tất cả dư âm của buồn thảm đã biến mất. Tương tự thế, Đức Đạt
Lai Lạt Ma sẽ cười mà không kềm chế vào điều gì đó buồn cười và rồi, trong một
vài giây, biểu lộ sự tập trung nghiêm túc nhất. Ngài không quá dính mắc với mọi
thứ - kể cả những cảm xúc của chính ngài.
***
Xem
Đức Đạt Lai Lạt Ma
hành thiền, tôi xoay sở để ngồi gần đúng một cách thô thiển trong tư thế hoa
sen, nhưng chỉ năm phút trước khi cơn đau quá độ, tôi đã thay đổi để ngồi kiểu
quỳ gối và bắt đầu nghịch vớ vẩn với máy quay hình, đầu tiên xoay dọc theo một
bức tường, nhắm vào những cuốn thư thangka Tây Tạng cổ điển và những bức tượng
xinh xắn, sau đó quay trở lại Đức Đạt Lai Lạt Ma. Không có cách nào để tôi có
thể ngồi tĩnh lặng như ngài. Sự bình lặng thăm thẳm của căn phòng không giúp gì
cho tôi. Mặc cho những làn sóng hành thiền an lạc đầy năng lực không nghi ngờ
gì tỏa ra từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng tất cả tôi có thể nghĩ đến là sợi gân
nóng bừng nối kết bắp vế phải đến mông phải của tôi.
Rồi
điều gì đó chạm vào mắt tôi. Ở phía kia của gian phòng, phân nửa bị che giữa
vài vật bằng đồng nhỏ và một chậu hoa tươi, là một bức hình trong một khuôn
kính nhỏ màu xanh lục. Hình như đó là tấm ảnh duy nhất trong phòng, giữa những
tranh thangka, những vật trang trí nghệ thuật, và những kinh điển cổ xưa.
Và
không chỉ thế - đó là hình của tôi. Hay, đúng hơn, đó là tấm hình của tôi cho đến
khi tôi tặng nó cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trong lần phỏng vấn vài tháng trước đây.
Tôi đã chụp tấm ảnh ấy khi tôi ở Tây Tạng năm 1985. Nó cho thấy hai vị tu sĩ
trong y áo đỏ thẩm dựa nửa người vào một bức tường phòng hộ trên nóc một tu viện,
chú ý mải mê vào một chuyện gì đó xảy ra
bên dưới. Bức ảnh được chụp từ phía sau,
cho nên chỉ thấy được phía sau lưng của họ. Họ đang chồm quá xa phía trước của
bức tường phòng hộ cho nên dường như họ có thể ngả nhào xuống bất cứ lúc nào.
Trước họ là một dãy đồi thấp.
Tu viên Reting |
Đó
là một bức hình tuyệt đẹp: màu đỏ tráng lệ lộng lẩy của y phục là rất sống động
đến như bạn có thể chạm và ngửi áo quần len dạ. Rồi là ánh trăng lốm đốm màu
nâu của cao nguyên Tây Tạng, những ngọn đồi tròn được phủ nhẹ bởi một làn tuyết
nhuộm xanh tươi, làm tất cả những góc khuất và đường nứt kẻ trên non xanh thành một sự thư giản sắc nét.
Bên phía trái của bức ảnh là một lùm cây cao xanh đen, những cây cối thiêng
liêng rất nổi tiếng của Tu Viện Reting[1].
Trong
hàng nghìn bức ảnh âm bản mà tôi đã chụp những năm tám mươi, khi tôi tìm ra và
ghi lại những địa điểm thiêng liêng của Tây Tạng, thì bức ảnh ấy là tôi thích
nhất. Tôi không biết chắc tại sao như vậy. Có nhiều tấm hình có thể có sự điều
hợp màu sắc sinh động hơn trong một sự quán sát ngẫu nhiên nào đó. Và có ít tấm
có thể là những ứng cử viên tốt hơn cho tạp chí National Geographic phổ biến về
Tây Tạng. Nhưng trong gần hai thập niên, tấm hình ấy là một tấm mà tôi đã giữ
bên cạnh tôi. Có lẻ đó là cách mà hai tu sĩ quấn y thật quá vô tình đối với bức
tường phòng hộ. Tính tự động vô tư như trẻ con của người Tây Tạng thì quá khác
biệt so với cung cách mà tôi liên hệ với con người và sự vật.
Khi
tôi tặng khung hình này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài không quá ấn tượng. Ngài
nhìn lướt qua tấm hình, sau đó đưa cho Tenzin Takltha. Ngài nhận rất nhiều tặng
phẩm, và ngài hầu như luôn luôn đưa chúng cho thị giả của ngài cất giữ cẩn thận.
Ngài biết ơn cử chỉ ấy, nhưng đơn giản là ngài không quá tập trung vào các tặng
phẩm ấy, dù đẹp hay không.
Rồi
thì, sau một suy nghĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, "Nơi này là gì?"
"Đó
là Tu Viện Reting, thưa Đức Thánh Thiện," tôi trả lời.
"Reting!"
ngài nói. "Tôi đã đến đó năm 1956."
Ngài
lấy lại tấm hình làm Tenzin giật mình và nhìn chăm chú sát vào nó.
"Reting.
Tôi nhớ nó rõ ràng lắm. Tôi cảm thấy có một sự gần gũi với tu viện này."
"Trong
nhiều tấm hình mà tôi đã chụp ở Tây Tạng, thì đây là tấm hình mà tôi luôn giữ
bên cạnh tôi," tôi nói.
"À,
cả hai chúng ta đều có một cảm giác đặc biệt với Reting," Đức Đạt Lai Lạt
Ma nói. "Tôi rất xúc động khi tôi ở đấy. Vì vài lý do không rõ, tôi cảm thấy
rất liên hệ nơi này. Từ lúc ấy, tôi thường nghĩ đến việc làm một liêu cốc ở
Reting và dành trọn thời gian còn lại của tôi ở đấy."
Tôi
nghĩ vào lúc ấy rằng tấm ảnh sẽ được giữ trong một kho lớn trong nơi cư trú,
tranh giành một không gian với tất cả những tặng phẩm tuyệt vời và trọng yếu mà
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận trong nhiều năm. Cho nên tôi đã sửng sốt khi thấy bức
ảnh của tôi ở đây.
Tenzin
chú ý tôi đang chăm chú vào tấm ảnh. Ông cho tôi một nụ cười toe toét. Đôi bàn
tay ông trên vạt áo, nhưng tôi thấy một ngón tay cái đưa lên.
Vâng,
tôi xúc động và hơi tự hào vì tấm hình của tôi đã ở trong thiền phòng, rất gần
với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi muốn tin rằng ngài giữ nó ở đấy bởi vì ngài có một
sự ưu ái đối với tôi. Nhưng tôi biết, khả năng không phải như vậy, nó ở đó bởi
vì Tu Viện Reting đã có một vị trí đặc biệt trong trái tim ngài.
Bên
ngoài bây giờ sáng hơn, chim bắt đầu hót. Tôi có thể thấy một làn sương mỏng
phía dưới Thung Lũng Kangra.
"Đủ
chưa?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, buổi hành thiền sáng sớm của ngài rõ
ràng chấm dứt bây giờ.
"Vâng,
cảm ơn, thưa Đức Thánh Thiện," tôi trả lời. Tôi có thể nói gì khác hơn chứ?
Tôi muốn dành trọn ngày với ngài?
Ngài
đứng dậy từ phía sau bàn của ngài. Tenzin và tôi trườn mình để đứng dậy.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma bước tới bức tường và bắt đầu lục lọi trong những vật bằng đồng
nhỏ và những đèn bơ bày trên cánh bàn cao lên. Rồi thì ngài nhìn qua vai ngài
và nói với tôi, "Đến đây."
Ngài
đưa tôi một mô hình tu viện nhỏ kiểu Ấn Độ. Được làm bằng đá xám, nó cao khoảng
một tấc. Nó được chạm tỉ mỉ là năm tháp kể cả tháp trung tâm trên đỉnh một cấu
trúc hai tầng, bốn tháp nhỏ hơn bố trí ở bốn góc. Người thợ chạm đã khắc rất cẩn
thận những cửa sổ, cửa ra vào nhỏ xíu và những chi tiết khác trong mỗi tầng. Đối
với một vật nhỏ như vậy, nhưng nặng một cách đáng ngạc nhiên.
"Ngôi
chùa ở Bồ Đề Đạo Tràng. Tặng Ông." ngài nói. Bồ Đề Đạo Tràng nơi Đức Phật
Giác Ngộ - là Phật tích, nơi hành hương tuyệt diệu nhất của Phật tử.
Sau
đó Đức Đạt Lai Lạt Ma trao cho tôi một vật thứ hai - một viên đá có hình bán cầu,
cở một viên cẩm thạch lớn cẩn đồng. Viên đá có vài cấp độ của màu nâu, và những
chỉ trắng chạy qua trung tâm của nó. Tôi không biết nó là đá gì. Đức Đạt Lai Lạt
Ma đã không giải thích.
Tôi
ngạc nhiên với những tặng phẩm. Ngoại trừ tấm khăn khata bắt buộc - tấm khăn
choàng truyền thống dâng cúng - tôi chưa nhận một tặng phẩm nào từ ngài. Vì hai
thứ này từ thiền phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi cho rằng chúng phải giữ một
ý nghĩa quan trọng đối với ngài.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma nắm tay tôi một cách nhẹ nhàng trong tay ngài và đưa tôi ra cửa.
Sau đó ngài đột ngột quay sang một tủ gỗ chứa nhiều đồ vật bằng đồng và những
thứ tuyệt đẹp khác. Ngài moi móc chung quanh bên trong, tìm một thứ gì đấy.
"Aha!"
Gương mặt ngài trông rạng rở, ngài cầm ra một bức tượng nhỏ, một hình tượng màu
bằng gỗ quỷnh của một cụ già với bộ râu rìa dài đến thắt lưng. Nó có một khuôn
mặt rộng - rõ ràng là những hình tượng Á châu với một lỗ mũi to và chân mày rậm.
Trong tay phải là một cây gậy. Một tác phẩm về một hiền nhân Trung Hoa.
"Tặng
ông. Gặp lại ông sớm nhé," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói.
***
Trở
về khách sạn, tôi ngâm nga vài đoạn của đĩa nhạc "A Whiter Shade of Pale[2]" khi tôi trở lại công việc thường ngày của tôi. Cửa phòng tôi mở,
và tôi có thể thấy một phụ nữ Tây Tạng phơi áo quần trên nóc nhà phía dưới
khách sạn. Bà ta cũng ngâm nga một giai điệu, mặc dù bà ta ở khá xa để tôi nhận
ra. Tôi lấy dụng cụ video của tôi ra để xem chiều dài của phim sáng nay. Tôi khởi
động máy quay và trả cuộn băng về lúc đầu. Những hình ảnh đầu tiên trên màn
hình LCD là hình Đức Đạt Lai Lạt Ma đang ngồi sau bàn làm việc trong thiền
phòng của ngài. Ngài đang chuẩn bị để ngồi thiền. Ánh sáng thích hợp và âm
thanh tốt. Đột nhiên, những làn ngang nhảy lên màn hình. Thay vì bức tranh tường,
thì không có gì mà chỉ là những vạch ngang trong suốt trong những sắc thái khác
nhau của màu xám. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã biến mất hoàn toàn khỏi màn hình.
Tôi đấm mạnh vào nút chạy tới nhanh. Những đường sọc
nhảy múa lên xuống. Tôi dừng cuộn băng lại và rồi nhấn chạy. Những đường sọc. Không
có gì cả chỉ những đường sọc nhảy múa. Tôi trả băng lại từ đầu và chạy lại những
hình ảnh đầu tiên. Màu sắc tối âm u bởi vì ánh sáng thấp, nhưng hình ảnh của Đức
Đạt Lai Lạt Ma sắp ngồi trong tư thế hoa sen thì sắc nét. Hình ảnh ngồi thiền tiếp theo thì bị xóa sạch.
Tôi trả cuộn băng lại và chạy cuộn băng tới lui cho đến khi pin bắt đầu yếu dần.
Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, November 04, 2015
[1] Được
thành lập bởi đại đệ tử của Atisha là Dromtönpa năm
1057 trong Reting Tsampo Valley, phía bắc của thủ đô Lhasa.
[2] "A
Whiter Shade of Pale" là dĩa đơn đầu tiên của ban nhạc Rock người Anh Procol Harum, được phát hành 12
tháng 5 1967. Nhạc do Gary Brooker và Matthew Fisher viết, lời là của
Keith Reid.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét