Chuông
báo thức đúng 4 giờ sáng. Tôi bấm nút tắt với sự thư thái. Tôi đã mua chiếc đồng
hồ du lịch một ngày trước tại một cửa hàng, và tôi đã lo lắng rằng không biết
nó có hoạt động chính xác hay không. Tôi đã kinh nghiệm nhiều lần thất vọng
trong quá khứ với những chiếc đồng hồ do Ấn Độ sản xuất.
Tôi
mặc quần áo vội vã, với lấy những dụng cụ chụp hình, và đi ra cửa sau một khách
sạn. Tôi có thể thấy bóng đen của rặng Dhauladhar, vòng ngoài của dãy Hy Mã Lạp
Sơn, vươn lên phía trên ngọn đồi nhỏ Dharamsala. Thật là yên tĩnh, có lẻ còn
vài giờ nữa thì thị trấn mới thức dậy, không thấy ai cả. Tôi bước đi nhanh qua
bến xe buýt nhỏ trống trãi, sau đó vụt chạy dọc theo con đường quanh co hướng đến
nơi cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tenzin
Taklha, phó thư ký riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, đang đợi tôi tại cổng của biệt
điện. Mặc áo sơ mi ngắn tay và quần dài màu xám, ông trông thư thả và thoãi mái
vào lúc sáng sớm này. Tôi bối rối với cái áo sơ mi mắc dịch vương vướng khó chịu
phía sau lưng mặc dù trời mát.
"Tôi
rất tiếc ông phải dậy sớm thế này," tôi xin lỗi.
"Không
có gì. Tôi hiếm khi bên cạnh Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc ngài hành thiền vào sáng sớm.
Đó là một đặc ân hiếm hoi cho tôi." Tenzin là một người đẹp trai vào độ tuổi
ba mươi của ông, trả lời với một nụ cười
mĩm nhẹ nhàng.
Tôi
đã bắt đầu phỏng vấn vị lãnh tụ của người Tây Tạng cho chương trình của quyển
sách của chúng tôi vào năm trước, 1999.
Nhưng đây là lần đầu tiên tôi được phép bên cạnh ngài vào buổi sáng sớm thế
này.
Ngay
cả lúc này, vài người lính Ấn Độ và đôi ba người bảo vệ an ninh Tây Tạng đang
đi quanh cửa ra vào. Tenzin đưa tôi thẳng qua những cánh cửa kim loại lớn. Tôi
ngạc nhiên. Mặc dù bây giờ tôi đã là một nhân vật quá quen thuộc - trong năm
qua, tôi đã phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma hàng năm sáu lần - nhưng tôi luôn luôn
vẫn phải đi qua một loạt hệ thống kiểm soát kim loại và sau đó bị vỗ nhẹ khắp
thân thể bởi một người bảo vệ an ninh Tây Tạng. Mỗi khách viếng thăm đều phải
đi qua giai đoạn này, không có ngoại lệ.
Tôi
dường như đã đi qua một đường dây vô hình sáng nay. Tối thiểu là đến bây giờ, tôi thuộc vào một nhóm người không phải Tây Tạng
được tin tưởng như những người bạn tâm tình của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi được
cho phép đi vào những khu vực riêng tư của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà không bị kiểm
soát vũ khí giấu diếm.
Tâm
tư tôi quay ngược lại một trường hợp khác khi tôi đi qua cùng những chiếc cổng
này vào tháng Ba năm 1972. Vào lúc ấy, chỉ có những người lính canh Ấn Độ giữ vị
trí ở cổng ra vào. Tôi sẽ luôn luôn trân trọng ký ức ngày mùa xuân ấy khi tôi gặp
Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên. Lúc đó tôi hai mươi bảy tuổi.
Ăn
mặc cẩn thận cho cuộc diện kiến ấy hơn ba mươi năm trước. Tôi mặc chiếc quần
nhung đen hơi chật. Bàn tọa đáng ngờ, nó đã quá mòn bạn có thể thấy bên trong
xuyên qua vải. Chiếc áo sơ mi, mua từ Kabul mềm và sáng, cổ tay áo được cắt tỉa
với một dải hẹp thêu tay. Tuy nhiên, kiệt tác là một áo choàng đen trùm đầu tôi
đã mua ở Marrakech. Tôi rất thích nó, và ngoại trừ trời rất nóng, không thì tôi
luôn luôn quấn nó quanh mình tôi. Kiểu Zorro[1].
Tôi
nghĩ chưng diện toàn đen như vậy tương hợp với bộ ria Mãn Châu của tôi, tôi đã kiên
nhẫn nuôi dưỡng nó vài năm rồi khi tôi du lịch xuyên qua Âu châu và Á châu.
Nhưng tôi bắt đầu thất vọng với nó. Nó thưa và ngắn, không mọc rậm rạp và kiêu
hảnh như tôi tưởng. Và một điều khác nữa, nó có xu hướng mọc cong vào trái cổ của
tôi. Mặc cho sự chăm sóc hàng ngày của tôi - ve vuốt nó thường xuyên để động
viên nó để nó thích ứng với sự nghiêm trang - nhưng tất cả nó muốn làm là lẫn
tránh.
Tóc
tôi bóng và dài, gần phía lưng dưới tôi. Tôi chải chuốt nó và thắt bím nó lại
thành cái đuôi ngựa. Với bộ đồ tuyệt vời nhất của tôi, chiếc áo choàng phất phới
che đáy quần quá mòn của tôi, tôi đã sẳn sàng cho buổi yết kiến với người được
gọi là Thánh Vương[2]
của Tây Tạng.
Tôi
biết rất ít về Đức Đạt Lai Lạt Ma và đất nước của ngài. Tôi đã sống hai mươi
năm đầu của tôi tại Hồng Kông. Tây Tạng hầu như không được nhấn mạnh trong
chương trình của trường Crown Colony. Sự chú ý của những bạn học người Hoa của
tôi là tập trung dứt khoát vào phương Tây, với những trường học lớn về thương mại
và y dược và sự phát triển rực rở của kỷ thuật. Vùng đất bị ngăn trở và cấm
đoán được gọi là Nóc Nhà Thế Giới không là một nơi khêu gợi được sự tưởng tượng
của họ.
Tôi
thì cũng không khác gì hơn, ngoại trừ một điều. Ở trường trung học tôi đọc ngấu
nghiến những sách của Kim Dung, nhà viết truyện bậc nhất, mà tôi đã từng biết
trong thời thơ ấu của tôi. Tây Tạng trong sự tưởng tượng của tôi được hình
thành bởi tâm hồn nóng bỏng của Kim Dung. Đó là trong những truyện công phu kiếm
hiệp của ông mà lần đầu tiên tôi được biết về những lạt ma Tây Tạng bí ẩn, những
người đã thành tựu những năng lực siêu nhiên sau khi hành thiền hàng năm trong
những liêu cốc trên núi của họ. Sự tưởng tượng lãng mạn này về những tu sĩ Tây
Tạng, thi triển những năng lực tâm linh
và vật lý, đã ở trong tâm thức của tôi.
Cheryl
Crosby, một Phật tử đến từ New York, là lý do tôi phải gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Một người bạn của cô, Dorje Yuthok, gia trưởng một gia đình quý tộc ở Lhasa, đã
viết một lá thư giới thiệu cô với vị lãnh tụ Tây Tạng. Cheryl chỉ lớn hơn tôi
vài tuổi, nhưng có một khoảng cách lớn trưởng thành giữa chúng tôi. Cô là một
người tự tin và dễ kết bạn. Ngay cả khi chúng tôi bị bắt cóc ở Kabul, cô đã có
một khả năng điềm tĩnh và nhanh trí để giữ bề ngoài như hợp tác với những kẻ bắt
cóc. Sau khi trốn thoát, chúng tôi đã cùng nhau đi đến Dharamsala.
Ở
đấy tôi đã gặp những người Tây Tạng đầu tiên. Tôi thấy những người đàn ông và
đàn bà đi quanh những con lộ nhỏ hẹp, quay những bánh xe cầu nguyện, nhiều người
vẫn mặc những bộ đồ truyền thống và những đôi giày ống nỉ sặc sở cao đến đầu gối.
Tôi say mê với những khuôn mặt trần vô tư của họ. Có sự ấm áp chân tình bên
trong họ. Họ mĩm cười dễ dàng và thường xuyên. Họ có một ảnh hưởng tiềm ẩn của
vui đùa, của hoan hỉ trong mỗi lần gặp gở. Không nghi ngờ gì về nó. Dharamsala
cũng được biết như một Lhasa nhỏ, là một nơi dịu dàng nhất mà tôi đã từng đến.
Vào
buổi trưa của lần yết kiến ấy, Cheryl và tôi đi theo một người thị giả trung
niên qua những cánh cổng của biệt điện. Một người lính Ấn Độ bên khu vực đang đứng
dựa vào khẩu súng trường hút bidi (một loại ciga Ấn Độ). Ông chẳng màng nhìn
khi chúng tôi bước trên một lối đi ngắn đến tòa nhà tiếp khách. Đó là quy mô bảo
vệ an ninh chung quanh Đức Đạt Lai Lạt Ma vào lúc ấy.
Phòng
tiếp kiến, được phủ sơn bóng màu vàng, rộng lớn và sáng sủa. Những cuốn thư
thangka Tây Tạng treo rũ trên tường. Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế bành giản dị
nhưng thoải mái của Ấn Độ và chờ đợi. Tôi bị kích thích bởi viễn tượng của việc
gặp gở một người nào đó được nhiều người xem như cả vua và thánh nhân. Nhưng sự
hào hứng ấy bị nhuốm màu với sự e ngại nào đó. Mặc dù có nhiều điều về Tây Tạng
mà tôi không biết, nhưng tôi đã biết nhiều về điều này, Trung Quốc đã xâm lăng
đất nước của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào những năm năm mươi, đã giết nhiều người của
ngài, và đã buộc ngài phải tị nạn ở Ấn Độ. Bằng mọi lý do, Trung Quốc đã đối xử
với người Tây Tạng qua sự chiếm đóng là khủng khiếp. Và tôi, đúng là dòng dõi của
Hoàng Đế Tàu[3],
lại sắp đối diện với lãnh tụ tối cao của người Tây Tạng. Không chắc là Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã từng gặp nhiều người Trung Hoa sau khi ngài lưu vong năm 1959.
Tôi đã lo lắng là ngài có thể không thân thiện.
Khi
tôi nghiền ngẫm những kịch bản khả dĩ, thì hai tu sĩ trẻ vận y màu đỏ thẩm đi
vào. Tôi nhận ra Đức Đạt Lai Lạt Ma ngay lập tức. Ngài ba mươi bảy tuổi. Nhưng
với đôi kính của ngài và khuôn mặt không nhăn, ngài trông trẻ trung phi thường.
Không giống như những người dân bình dị Tây Tạng, ngài trông trắng trẻo và nét
mặt thanh tú. Cử chỉ của ngài lịch thiệp, khiêm tốn là một sự rạng rở khác. Ngài
mảnh khảnh, gần như gầy ốm. Cũng vậy tu sĩ bên cạnh ngài, thấp hơn không là
bao. Sau này tôi biết tên vị ấy là Tenzin Geyche Tethong, dòng dõi một gia đình
nổi tiếng ở Lhasa và là thông dịch viên cũng như thư ký của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Khi
ngài sắp ngồi xuống, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn thoáng qua chúng tôi. Ngài mời tôi
lần đầu tiên. Ngài chăm chú nhìn bộ ria của tôi và cười khúc khích. Không phải
là giọng trầm khám phá ra mà tôi đi đến hiểu biết quá rõ. Đó là là tiếng cười
rúc rích cao giọng bật lên thỉnh thoảng. Ngài gặp rắc rối trong việc tự kiềm chế,
và ngài khom mình về phía trước với cố gắng. Trong khi đó Cheryl bắt đầu lễ phủ
phục toàn thân. Cô bị giật mình bởi những tiếng cười khúc khích, nhưng cô quyết
định lễ cho xong.
Tôi
đứng đấy vào buổi trưa tháng Ba, cảm thấy kỳ dị. Tôi không biết mình đáng lẽ phải
làm gì. Tôi không biết lạy phủ phục. Thế nào đi nữa, tôi không cảm thấy muốn khấu
đầu lễ lạy người đàn ông trẻ trong nổi khổ sở của nóng lòng háo hức qua sự xuất
hiện của tôi.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng an vị. Ngài mĩm cười khi Cheryl dâng lên một khata, một
khăn choàng lễ màu trắng. Tôi xếp khăn của tôi và tiến đến ngài. Ngài hướng
nhìn tôi một lần nữa, và những tiếng cười khúc khích lại bắt đầu một lần nữa.
Ngay cả Tenzin Geyche trông long trọng bây giờ cũng cười toe tét một cách thoải
mái.
Nửa
giờ tiếp theo thì mờ nhạt. Tôi không nhớ lại là đã bắt đầu cuộc đối thoại ra
sao. Tôi chỉ nhớ lại mơ hồ Cheryl kể lại về chuyện của cô, rằng cô thực hành Phật
Giáo Tây Tạng, và cô là một người bạn của Bà Dorje Yuthok ở New York. Cheryl đã
hỏi vài câu với Đức Đạt Lai Lạt Ma, hầu hết về việc thực hành Phật Giáo của cô.
Tôi đã quên lâu rồi những gì cô muốn biết và những gì ngài trả lời cho cô.
Tenzin Geyche đã thông dịch một cách cẩn thận. Trong những ngày ấy, trình độ
Anh Văn của Đức Đạt Lai Lạt Ma thì rất ít ỏi thua những người Ấn Độ nói tiếng bồi.
Ngài sẽ lạc lõng nếu không có người thông dịch. Tuy thế, thỉnh thoảng ngài lại
đánh bạo chêm vào những thành ngữ tiếng Anh.
Sau
đó Đức Đạt Lai Lạt Ma quay sang và nhìn tôi. Tôi đang cố vắt óc để tìm ra những
câu hỏi rõ ràng. Nhưng tôi chỉ biết một ít về Tây Tạng và thậm chí còn ít hơn về
Phật Giáo. Cho nên tôi đã hỏi ngài vài việc đã dày dò tôi từ khi tôi bước qua cửa
phòng tiếp kiến lần đầu tiên.
Tôi
đã hỏi ngài có thù ghét người Trung Hoa không.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma dường như làm dịu bớt đi việc trao đổi của ngài với Cheryl. Bây
giờ ngài ngồi thẳng trên ghế của ngài. Ngài trả lời ngay lập tức và ngắn gọn.
Và bằng tiếng Anh.
"Không",
ngài nói.
Đôi
mắt ngài nhìn thẳng vào tôi. Biểu lộ của ngài rất trang nghiêm. Không có dấu hiệu
gì của vẻ vui tươi còn lại. Tôi nhìn chỗ khác và chăm chú xuống thảm nhà.
Sau
một lúc im lặng như vô tận, ngài đã nói một cách kín đáo và chậm rãi với Tenzin
Geyche bằng Tạng ngữ.
Vị
thư ký riêng thông dịch: "Đức Thánh Thiện không có bất cứ ý nghĩ xấu nào đối
với người Trung Hoa. Người Tây Tạng chúng tôi đã đau khổ vô cùng bởi sự xâm lược
của Cộng Sản Trung Quốc. Và như chúng tôi nói, Trung Cộng đã phá hủy một cách
có hệ thống từng viên đá một những tu viện vĩ đại của Tây Tạng. Gần như mỗi gia
đình ở Dharamsala đều có một câu chuyện buồn để kể, hầu hết mỗi gia đình đều có
mất một thành viên do sự tàn bạo của Trung Cộng. Nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng
sự tranh cải của ngài là với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Không phải với những người
Trung Hoa bình thường. Ngài vẫn quan tâm đến những người anh chị em Trung Hoa.
Đức Thánh Thiện không thù ghét người Trung Hoa. Như một vấn đề thực tế, ngài
tha thứ họ và không để lòng gì cả."
Thật
lạ lùng tôi đã nhớ lại những thứ linh tinh ấy một cách rõ ràng như thế nào
trong ba thập niên sau đấy. Có lẻ bởi vì câu trả lời quá bất ngờ, không giống
như bức ảnh mà Kim Dung đã vẽ ra với những câu chuyện kiếm hiệp của ông ta. Mỗi
người trong những câu chuyện của ông ta đã trả thù như một chủ đề lại diễn ra. Danh
dự của người đàn ông được định nghĩa bằng sự báo oán anh hùng và đơn giản: mắt
trả bằng mắt - rất giống tiêu chí samurai của phong kiến Nhật Bản. Tôi kinh ngạc
với ý tưởng rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tha thứ người Trung Cộng cho những gì họ
đã làm với dân tộc ngài.
Cheryl
đang lau nước mắt một cách lặng lẽ, xúc động không thể chống lại với buổi tiếp
kiến. Khi chúng tôi chuẩn bị chia tay, Đức Đạt Lai Lạt Ma bước tới và an ủi cô,
sau đó ngài bắt tay một cách trang trọng với tôi.
Tôi
rời phòng tiếp kiến lòng như vô cảm. Tôi phỏng đoán một vị vua nhưng ngài chẳng
giống một vị vua nào của loài người mà tôi đã từng gặp. Mặc dù thân thiện đúng
mức, nhưng ngài quá thực tế, một cảm nhận khiêm cung vô cùng. Chỉ có chút nào
đó thần thánh phưởng phất nơi ngài, và ngài cười khúc khích quá nhiều.
Sau
này, khi tôi tiếp tục chuyến du hành về phương Đông qua Miến Điện, Hồng Công,
và rồi Hoa Kỳ, tôi ngộ ra để thấy thời gian ngắn mà tôi có ở Dharamsala là tột
đỉnh kinh nghiệm của cuộc hành trình vòng quanh thế giới của tôi. Những người
Tây Tạng ở đấy đã tạo ra một ấn tượng không phai mờ trong tôi.
Hơn
một thập niên sau cuộc diện kiến năm 1972 với Đức Đạt Lai Lạt Ma, những thứ của
người Tây Tạng vẫn lù lù hiện ra trong tâm trí tôi. Họ cũng đã khơi lại bản
năng du mục ngủ ngầm của tôi. Từ năm 1984 trở về sau, lấy Kathmandu như căn cứ
địa, tôi đã đi lang thang qua những không gian hoang dã rộng lớn ở Tây Tạng
trong bốn năm để nghiên cứu một quyển sách hướng dẫn về những khu vực hành
hương cổ xưa của họ.
Phong
cảnh của cao nguyên là thấm thía và kinh ngạc, không giống bất cứ gì trong cuộc
lang thang nhiều năm trước đó mà tôi đã thấy. Những người Tây Tạng như tôi đã
thấy ở Dharamsala là hiền lành, rộng lượng, và có xu hướng đột nhiên bùng cười
vở bụng. Dù sự thật tôi thuộc chủng tộc Trung Hoa cũng không ngăn chặn họ giúp đở
tôi.
Sắc
mặt mĩm cười của Đức Đạt Lai Lạt Ma không bao giờ cách xa tôi. Tất cả những
ngôi nhà và tu viện ở làng quê mà tôi thăm viếng đều có hình ngài trên bàn thờ.
Mỗi người tôi gặp đều hỏi về ngài, thường với dòng lệ trên mắt họ. Bổng nhiên,
Đức Đạt Lai Lạt Ma và lập trường của ngài càng nổi bật hơn trong tâm trí tôi.
Nó cho tôi thức tỉnh rằng ngài và người dân của ngài đã thực tập một tôn giáo rất
đơn giản - họ thực tập việc thể hiện ân cần tử tế đến người khác.
***
Khi
những cánh cổng kim loại
khu cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma khép lại sau lưng chúng tôi, Tenzin Takltha
và tôi bước lên những lối xi măng rộng đến khu phức hợp của tòa nhà tiếp khách,
nơi mà cuộc phỏng vấn của tôi với lãnh tụ Tây Tạng luôn luôn xảy ra. Chúng tôi
đi vòng qua khu phức hợp và điện tụng niệm nhỏ và rồi đi xuyên qua một vùng đầy
cây cối. Phía trước là khu vườn và tòa nhà hai tầng xinh xắn nơi Đức Đạt Lai Lạt
Ma ngơi nghỉ và hành thiền. Đây là nơi xa nhất mà tôi đã từng đi đến trong khu
vực khép kín này.
Một
người lính Ấn Độ cầm súng tự động đứng gác bên ngoài cửa ra vào. Một người Ấn Độ
khác, một người đàn ông mặc thường phục với áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, nhìn
chúng tôi một cách bình thản. Ba hay bốn người canh gác Tây Tạng đi đi lại lại
im lặng. Khi chúng tôi đứng trước cửa nhà, tôi cảm thấy lúng túng, một người
xâm phạm vào trong một biệt điện sâu kín nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Như
thể có mặt đúng lúc, lãnh tụ người Tây Tạng bước ra khỏi tòa nhà, nhìn chăm chú
tôi, mĩm cười và nói, "Nị hào?" (Xin chào?) trong giọng bùng vở của ngài. Ngài thích dùng tiếng Hoa để chào tôi.
Xiết chặc tay tôi, ngài bắt đầu bước lên lối đi qua khu vườn. Ngài đi một cách
nhanh nhẹn dọc theo con dốc thoai thoãi khoảng năm mươi thước và rồi quay lại.
Ngài đang cưởi khúc khích khi ngài đến trước tôi, ngài đang phô trương. Chúng
tôi đã nói về tầm quan trọng của việc tập thể dục một vài tháng trước đây. Cùng
lúc ấy, ngài thú nhận với tôi rằng ngài không thích tập thể dục thân thể, rằng
ngài vô cùng lười biếng với việc ấy. Tôi buộc ngài hứa rằng ngài phải gia tăng
khối lượng tập luyện, từ năm mươi lễ phủ phục toàn thân một ngày lên một trăm.
Bây giờ ngài đang hăng hái biểu lộ cho tôi thấy ngài đã tập thể dục sáng nghiêm
túc như thế nào.
Ngài
ra dấu cho tôi và Tenzin đi theo ngài. Chúng tôi đi lên một cầu thang xi măng đến
tầng thứ hai bên ngoài sáng sủa - một không gian rộng mở với một vài ghế bành
và ghế trường kỷ thoải mái rải rác. Những tấm thảm Á châu bao phủ sàn nhà bằng
gỗ, và những cửa sổ từ sàn đến trần nhà khắp trên bức tường bên phải. Tôi có thể
thấy thung lủng Kangra đột ngột rơi xuống một cách sắc nét, những đỉnh núi dịu
dàng với ánh sáng đầu tiên.
Sau
đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa chúng tôi vào phòng hành thiền của ngài.
***
Ấn
Tâm Lộ, Sunday, November 01, 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét