Nguyên
tác: Awareness of Death
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
-***-
Giống như khi dệt vải
Ta đi đến kết thúc
Với những sợi chỉ mịn màng xen vào nhau
Đời sống của con người cũng như vậy
-
ĐỨC PHẬT
-
Thật quan trọng để tỉnh thức về sự chết – để quán chiếu rằng
ta sẽ không sống mãi trên cuộc đời này. Nếu ta không tỉnh thức về sự chết, thì
ta sẽ không tận dụng tất cả những thuận lợi của đời sống con người quý giá này
mà ta đang có được. Nó trọn vẹn ý nghĩa vì căn cứ trên việc ấy thì những tác động
quan trọng có thể được hoàn thành.
Phân tích sự chết không phải để rồi sợ hãi nhưng để trân
trọng đời sống quý giá này, mà trong thời gian sinh tồn ta có thể tiến hành nhiều
sự thực tập quan trọng. Thay vì khiếp đảm, ta cần quán chiếu rằng khi sự chết đến,
thì ta sẽ đánh mất cơ hội tốt đẹp này để thực tập. Trong cung cách quán chiếu
này về sự chết, nó sẽ mang đến nhiều năng lượng hơn cho sự thực tập của ta.
Ta cần chấp nhận rằng sự chết đến trong tiến trình bình
thường của sự sống. Như Đức Phật đã nói:
Một nơi để ở không bị
sự chết chạm đến
Không tồn tại.
Nó không hiện hữu
trong không trung, nó không hiện diện trong đại dương.
Nó cũng không có
khi ta ở giữa núi non.
Nếu ta chấp nhận rằng sự chết là một phần của sự sống, thế
thì khi nó thật sự đến, ta có thể đối diện nó một cách dễ dàng hơn.
Khi người ta biết rõ trong thâm tâm rằng sự chết sẽ đến
nhưng lẫn tránh suy nghĩ về nó một cách cố ý, như vậy không thích đáng với hoàn
cảnh và đấy là chướng ngại ẩn tàng. Cũng đúng như vậy khi tuổi già không được
chấp nhận như một phần của sự sống lại bị coi là không muốn và bị lẫn tránh
trong tư tưởng. Điều này đưa đến một tinh thần không được chuẩn bị, thế rồi khi
tuổi già xảy đến không thể tránh khỏi, thì rất khó khăn.
Nhiều người già thân thể nhưng tâm hồn luôn luôn trẻ
trung. Đôi khi tôi gặp những người bạn lâu năm, chẳng hạn như những nghị sĩ nào
đó trong những quốc gia như Hoa Kỳ, tôi chào họ với câu, “My old friend” (Người
bạn cũ của tôi), có nghĩa là chúng ta đã biết nhau lâu rồi, không nhất thiết là
già. Nhưng khi tôi nói thế, một số người
trong họ [lại nghĩ tôi nói là: “Người bạn già của tôi”], đã sửa sai tôi có tính
cách nhấn mạnh, “Chúng ta không già! Chúng ta là những người bạn lâu năm.” Thật
sự, họ đã già – với những sợi lông ở lỗ tai, một dấu hiệu của tuổi già – nhưng họ
không thoãi mái với cảm nhận tuổi già.
Tôi thường nghĩ về tuổi thọ tối đa của đời sống con người
như một trăm tuổi, vốn, so sánh với tuổi thọ của hành tinh, thì rất ngắn. Sự tồn
tại ngắn ngủi này nên được sử dụng trong
một cung cách thế nào mà không gây khổ đau cho người khác. Nó nên là một chí
nguyện không làm việc tiêu cực, nhưng là những hành động tích cực hơn – tối thiểu
không làm tổn hại người khác, hay tạo rắc rối cho họ. Trong cách này, khoảng thời gian ngắn ngủi của
chúng ta như một khách du lịch trên hành tinh này sẽ đầy đủ ý nghĩa. Nếu như một
khách du lịch viếng thăm một nơi nào đó trong một thời gian ngắn và tạo thêm rắc
rối, thì thật là ngớ ngẩn. Nhưng nếu như một khách du lịch ta làm cho người
khác hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi ấy, như vậy là thông tuệ; khi ta di chuyển đến
một nơi khác, ta cảm thấy hạnh phúc. Nếu ta tạo ra các rắc rối, mặc dù tự ta
không chạm trán với bất cứ khó khăn nào trong thời gian lưu trú, thì ta sẽ tự hỏi
có lợi lạc gì trong sự thăm viếng của ta.
Trong đời sống một trăm năm, phần ban đầu là tuổi ấu thơ
và phần cuối cùng là trong tuổi già, thông thường giống như một động vật ăn và
ngủ. Đoạn giữa, có thể là sáu mươi hay bảy mươi năm được sử dụng một cách đầy đủ
ý nghĩa. Như Đức Phật đã nói:
Phân nửa cuộc đời là
giấc ngủ. Mười năm là tuổi thơ. Hai mươi năm mất trong tuổi già. Hai mươi năm
tiếp tục là sầu khổ, phiền hà, đau thương, và bối rối chiếm mất nhiều thời
gian, và hàng trăm bệnh tật thân thể tàn phá thêm nữa.
Để làm cho cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, điều quan trọng là
hãy chấp nhận tuổi già và sự chết như những bộ phận của sự sống. Việc cảm thấy
rằng sự chết là hầu như không thể xảy ra chỉ tạo thêm tham lam và rắc rối hơn –
đôi khi ngay cả cố ý gây tổn hại cho người khác. Khi chúng ta nhìn sâu vào những
nhân vật vĩ đại – những hoàng đế, các triều đại, và v.v… - đã xây dựng những
cung điện và những thành quách cư ngụ như thế nào, thì chúng ta thấy bên trong
tâm hồn họ là một ý tưởng rằng họ sẽ sống trên đời này mãi mãi. Sự tự lừa dối
này đưa đến kết quả của nhiều khổ đau hơn và nhiều rắc rối hơn cho nhiều người
khác.
Ngay cả đối với những người không tin vào những kiếp sống
tương lai, việc quán chiếu vào thực tại là phong phú, hữu ích, khoa học. Bởi vì
những con người, các tâm thức và tất cả những thứ khác làm các hiện tượng thay
đổi từng thời khắc, điều này mở ra khả năng cho sự phát triển tích cực. Nếu các
hoàn cảnh không thay đổi, thì chúng sẽ mãi mãi duy trì bản chất của khổ đau. Một
khi chúng ta biết mọi thứ là luôn luôn thay đổi, ngay cả nếu chúng ta đang trải
qua một thời điểm vô cùng khó khăn, thì chúng ta có thể tìm thấy sự thoải mái
trong việc biết rằng hoàn cảnh sẽ không duy trì trong cách ấy mãi mãi. Vì vậy
cho nên, không cần phải thất vọng.
Sự may mắn cũng chẳng phải thường hằng, bởi thế, không lợi
ích cho việc dính mắc quá nhiều khi mọi thứ đang diễn tiến tốt đẹp. Một viễn cảnh
thường hằng hủy hoại chúng ta. Ngay cả nếu chúng ta chấp nhận rằng có những kiếp
sống tương lai, thì hiện tại trở thành sự bận tâm của chúng ta, và tương lai chỉ
được xem là việc nhỏ thôi. Điều này làm hỏng một cơ hội tốt khi đời sống của ta
được phú cho mọi tiện nghi và thong dong để dấn thân trong những sự thực tập
tích cực. Một quan điểm về vô thường sẽ hữu ích.
Việc tỉnh thức tỉnh về vô thường làm ta đi tìm sự luyện tập
– thuần hóa tâm thức – nhưng điều này không có nghĩa là hành hạ, hay sự kiểm
soát từ bên ngoài. Sự luyện tập không có nghĩa là cấm đoán, đúng hơn, nó có
nghĩa là khi có một sự mâu thuẩn giữa những quan tâm dài hạn và ngắn hạn, thì
ta hy sinh lợi ích ngắn hạn vì mục tiêu lâu dài. Đây là kỷ luật tự giác, vốn xuất
phát từ việc xác định nguyên nhân và hệ quả của nghiệp. Thí dụ, vì mục tiêu làm
cho bao tử của tôi trở lại bình thường sau cơn bệnh gần đây, tôi đang tránh thực
phẩm chua và thức uống lạnh vốn có vẻ ngon và hấp dẫn. Loại luyện tập hay kỷ luật
này có nghĩa là sự bảo vệ. Trong một cung cách tương tự, phản chiếu về sự chết
làm ta đi tìm kỷ luật tự giác và tự bảo vệ, chứ không phải là sự hành hạ.
Loài người có mọi tiềm năng để tạo nên những thứ tốt đẹp,
nhưng việc sử dụng hoàn toàn nó đỏi hỏi tự do, khai phóng. Chế độ chuyên chế
ngăn trở sự tăng trưởng này. Trong một cung cách bổ sung, chủ nghĩa cá nhân có
nghĩa là ta không mong đợi điều gì đó từ bên ngoài hay ta đang chờ đợi những mệnh
lệnh; đúng hơn, tự chính ta tạo ra sáng kiến. Do thế, Đức Phật thường kêu gọi
“sự giải thoát cá nhân”, có nghĩa là sự tự giải thoát, không qua một tổ chức. Mỗi
cá nhân phải sáng tạo một tương lai của chính họ. Tự do và chủ nghĩa cá nhân
đòi hỏi kỷ luật tự giác. Nếu những thứ này bị lợi dụng vì mục tiêu của các cảm
giác phiền não, thì sẽ có những hậu quả tiêu cực. Tự do và kỷ luật tự giác phải
làm việc với nhau.
MỞ RỘNG NHẬN THỨC CỦA TA
Theo nhận thức của Phật giáo, mục tiêu tối thượng của tất
cả là để đạt được Quả Phật nhằm để có thể cứu giúp vô số chúng sanh; tuy nhiên,
một trình độ trung bình của việc thành tựu có thể giải thoát ta khỏi vòng sanh,
già, bệnh, chết; một trình độ thấp hơn, nhưng vẫn là một trình độ quý giá của
thành tựu là sự cải thiện các kiếp sống tương lai của chúng ta. Từ việc cải thiện
dần dần các kiếp sống giải thoát của chúng ta có thể đạt đến được, và căn cứ
trên điều này, cuối cùng Quả Phật có thể thành tựu được. Trước tiên, nhận thức
của chúng ta mở rộng để bao gồm các kiếp sống tương lai; sau đó qua sự thấu hiểu
toàn diện cảnh ngộ của chính mình, thì nhận thức của chúng ta thâm nhập sâu xa
để bao gồm tất cả các chu kỳ của khổ đau từ kiếp này đến kiếp khác, được gọi là
vòng luân hồi hay samsara. Cuối cùng, sự thấu hiểu này có thể được mở rộng đến
những người khác, qua nguyện ước của từ bi mong tất cả chúng sanh được thoát khỏi
khổ dau và các nguyên nhân của đau khổ. Lòng từ bi này đưa chúng ta đến nguyện
vọng thành tựu Quả Phật.
Chúng ta phải quan tâm với những khía cạnh sâu xa hơn của
đời sống vốn ảnh hưởng những kiếp sống tương lai trước khi thấu hiểu toàn bộ bản
chất của khổ đau và vòng luân hổi. Sự thấu hiểu này về khổ đau, hóa ra, được
đòi hỏi cho sự phát triển toàn diện của lòng từ bi.
NHỮNG BẤT LỢI CỦA VIỆC KHÔNG TỈNH THỨC VỀ SỰ CHẾT
Thật lợi ích để tỉnh thức rằng ta sẽ chết. Tại sao? Nếu
ta không tinh thức về sự chết, thì ta sẽ không chánh niệm về sự thực tập, và sẽ
chỉ lãng phí đời sống của ta một cách vô nghĩa, không thẩm tra những loại thái
độ và hành động nào làm hiện hữu khổ đau và những thứ nào mang đến hạnh phúc.
Nếu ta không chánh niệm rằng chẳng bao lâu ta sẽ chết thì
ta sẽ thất bại dưới sự quay cuồng của một cảm nhận sai lầm về vĩnh cửu hay thường
hằng “Sau này tôi mới chết, lâu lắm kìa.” Rồi thì, đến lúc ấy, ngay cả ta muốn
cố gắng để hoàn thành điều gì đó đáng giá, ta cũng sẽ không có năng lượng. Nhiều
người Tây Tạng đi vào tu viện lúc tuổi trẻ và học hỏi những kinh luận về sự thực
tập tâm linh, nhưng khi đến lúc để thực hành thật sự, năng lực để làm như vậy
dường như vắng bóng. Đây là bởi vì họ không có một sự thấu hiểu chân thật về vô
thường.
Nếu, đã tư duy về vấn đề thực tập như thế nào, thì ta sẽ
thực hiện một quyết định rằng ta chắc chắn phải làm như thế trong một khóa tu
vài tháng hay thậm chí trong nhiều năm, ta đã được động viên bởi kiến thức của
ta về vô thường. Nhưng nếu sự cần kíp ấy không được duy trì bởi việc quán chiếu
lặp đi lặp lại về những tàn phá cua vô thường thì sự thực tập của ta sẽ đuối dần.
Đây là tại sao một số người cứ ẩn tu bao năm dài nhưng kinh nghiệm không ảnh hưởng
sâu sắc trên đời sống của họ sau đấy. Việc quán chiếu về vô thường không chỉ động
viên cho sự thực tập của ta, nhưng cũng cung cấp năng lượng cho nó.
Nếu ta có một cảm nhận mạnh mẽ về điều chắc chắn của sự
chết và việc không biết chắc khi nào nó đến, thì ta sẽ được động viên từ bên
trong. Nó sẽ giống như là một người bạn đang cảnh báo, “Hãy cẩn thận, hãy
nghiêm túc, một ngày nữa đã qua.”
Thậm chí ta có thể trở thành một tu sĩ. Nếu ta làm như thế,
ta sẽ được cho một cái tên mới và quần áo mới. Ta cũng có thể sẽ ít bận rộn
hơn; ta sẽ phải thay đổi thái độ, hướng chú ý đến những mục tiêu sâu xa hơn.
Tuy nhiên, nếu ta tiếp tục tự bận rộn với những mối quan tâm hời hợt – thức ăn
ngon, áo quần đẹp, chỗ ngủ tốt, đối thoại hài lòng, nhiều bạn bè và người quen,
và ngay cả tạo ra kẻ thù nếu người nào đó làm việc gì đấy mà ta không thích và
rồi thì cải vả và đấu đá – ta sẽ không có gì khá hơn trước khi ta vào tu viện,
và có thể ngay cả tệ hơn. Hãy nhớ rằng xa rời khỏi những hành động hời hợt nông
cạn này vì ngượng ngùng hay sợ những người đồng tu nghĩ về mình là không đủ, mà
sự thay đổi phải đến từ bên trong.
Đây là sự thật cho cả tu sĩ và cư sĩ thực hiện sự tu tập.
Có lẽ ta bị bao vây bởi một cảm nhận về thường hằng vĩnh
cửu, bằng việc nghĩ rằng ta sẽ không chết một cách sớm sủa và rằng trong khi vẫn
còn sống, thì ta cần thức ăn, áo quần, và những cuộc đối thoại tốt đẹp. Vì những
tham muốn cho những ảnh hưởng lạ lùng của hiện tại, ngay cả nếu chúng chỉ có ý
nghĩa nhỏ nhoi về sau, thì ta lại sẳn sàng áp dụng mọi loại trơ trẻn, phóng đại
và phương chước để có được những gì chúng ta muốn – mượn nợ với lãi xuất cao,
nhìn xuống những người bạn, bắt đầu thủ tục tòa án – tất cả vì lợi ích của
không gì hơn là những sự dự phòng.
Vì ta đã đam mê đời sống của ta qua những hành vi như thế,
nên tiền bạc trở nên hấp dẫn hơn là sự học hành, và ngay cả nếu ta cố gắng để
thực tập, thì ta không chú ý nhiều đến nó. Nếu một trang sách bị mất, ta ngập
ngừng tìm lại, nhưng nếu tiền bạc rơi xuống đất thì không cần phải hỏi. Nếu ta
chạm trán với người thật sự dâng hiến đời sống của họ để thâm nhập sâu sắc hơn
với những mục tiêu tâm linh, ta có thể nghĩ tốt về sự tận tụy ấy, nhưng tất cả
là thế; trái lại nếu ta thấy ai đó ăn vận áo quần lộng lẫy, phô trương sự giàu
sang của họ, thì ta có thể mong ước cho điều ấy, thèm khát, hy vọng được những
thứ ấy – với sự dính mắc ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, ta làm mọi việc để được
những thứ ấy.
Một khi ta hăm hở trong sự lộng lẫy của kiếp sống này, những
cảm xúc phiền não sẽ gia tăng, vốn hóa ra tất yếu sẽ mang đến nhiều hơn những hạt
giống xấu. Những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng này chỉ hướng đến rắc rối, làm cho
chính ta và những người chung quanh không thoải mái. Thậm chí nếu ta học hỏi
tóm tắt vấn đề thực tập như thế nào về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ,
thì ta lại đòi hỏi ngày càng nhiều hơn những thứ vật chất và liên hệ ngày càng
nhiều với những người khác đến mức độ nơi ta ở, để nói như vậy, việc thực tập
những tính hời hợt của kiếp sống này, thường trầm tư trau dồi tham khát bạn bè
và thù ghét kẻ thù và cố gắng tìm ra những phương cách để đáp ứng những cảm xúc
phiền não này. Ở điểm ấy, ngay cả nếu ta nghe về những thực tập thật sự, lợi lạc,
ta có khả năng cảm thấy, “Vâng, đó là
như vậy, nhưng…” Một chữ “nhưng” tiếp theo sau những chữ “nhưng” khác. Thật sự,
ta đã trở thành quen thuộc với những cảm xúc phiền não suốt vòng sanh tử luân hồi,
nhưng bây giờ ta đã thêm vào chính sự thực tập nông cạn hời hợt này. Điều này
làm cho tình cảnh thậm chí tệ hại hơn, đẩy ta ra xa khỏi những gì thật sự hữu
ích.
Bị lèo lái bởi những tham muốn ấy, ta sẽ không tìm thấy
thoải mái. Ta không làm cho người khác hạnh phúc – và chắc chắn ta cũng vậy.
Khi ta trở thành vị kỷ hơn – “cái này của tôi, cái kia của tôi,” thân thể tôi,
tài sản của tôi” – bất cứ người nào gây trở ngại, tức thời trở thành một đối tượng
của sân hận. Mặc dù, ta có nhiều “bạn bè tôi”
và “thân nhân tôi”, nhưng họ không thể giúp đở gì lúc ta sanh ra hay lúc
ta chết; ta đến đây đơn độc, và ta sẽ ra đi đơn côi. Nếu ngày ta chết, một người
thân có thể đồng hành cùng ta, thì sự dính mắc sẽ có giá trị, nhưng không thể
như vậy. Khi chúng ta tái sanh trong một hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ, nếu người
thân của ta từ kiếp trước có thể giúp đở được điều gì đó, thì đấy cũng là điều
gì đó nên quan tâm đến, nhưng nó cũng không phải vậy. Tuy nhiên, giữa sanh và tử
(khoảng thời gian tại thế), trong vài thập niên đó là “bạn bè tôi”, “chị em
tôi”, “anh em tôi.” Sự nhấn mạnh không đúng chỗ này hoàn toàn không lợi ích gì
cả, ngoại trừ sẽ tạo thêm hoang mang, tham luyến, và thù hận.
Khi những người bạn được làm nổi bật quá mức, thì những kẻ
thù cũng bị làm nổi bật quá mức. Khi ta chào đời, ta không biết bất cứ người
nào và cũng không ai biết ta. Mặc dù tất cả chúng ta tất cả chúng ta đều bình đẳng
trong việc muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, nhưng chúng ta thích đối diện
với một số người và nghĩ, “Đây là những người bạn của tôi,” và không thích đối
diện với những người khác và nghĩ, “Đây là những kẻ thù của tôi.” Chúng ta gắn
vào những bản chất và tên hiệu cho họ và cuối cùng thực tập việc phát sinh những
tham muốn cho những người bạn và phát sinh thù hận cho những kẻ thù. Có ý nghĩa
gì ở đấy trong điều này? Không. Vấn đề là có quá nhiều năng lượng đang được khuếch
trương trong việc quan tâm cho một trình độ không gì sâu xa hơn là những mối
quan hệ thiển cận của kiếp sống này. Sự thậm thâm bị thua thiệt với sự tầm thường.
Nếu ta không thực tập và vào ngày ta chết, ta được vây
quanh bởi những người bạn và những thân nhân khác liên hệ sinh thời đang thổn
thức, thay vì có một người nào đó nhắc nhở ta về sự thực tập đạo đức, thì sự bi
thương của họ sẽ chỉ mang đến rắc rối, và ta sẽ mang lấy nó cho chính ta. Sai lầm
ở chỗ nào? Do không chánh niệm về vô thường.
NHỮNG THUẬN LỢI CỦA VIỆC CHÁNH NIỆM VỀ VÔ THƯỜNG
Tuy nhiên, nếu ta không đợi đến phút cuối của cuộc đời
cho nhận thức rằng ta sẽ chết, và ta sẽ lượng định hoàn cảnh của ta bây giờ một
cách thực tế, ta sẽ không bị áp đảo bởi những mục tiêu nông cạn, tạm thời. Ta sẽ
không quên lãng những vấn đề quan trọng về lâu dài. Thật tốt đẹp hơn để quyết định
ngay từ lúc đầu rằng ta sẽ chết và khám phá điều gì đáng giá. Nếu ta giữ trong
tâm ta vấn đề kiếp sống này sẽ biến mất nhanh chóng như thế nào, thì ta sẽ lượng
định thời gian và làm những gì có giá trị. Với một cảm nhận mạnh mẽ về sự chết
nhất định sẽ đến, thì ta sẽ cảm thấy nhu cầu của việc dấn thân trong sự thực tập
tâm linh, việc cải thiện tâm thức chúng ta, và sẽ không lãng phí thời gian của
ta trong đủ thứ những việc xao lãng xếp loại từ ăn uống đến việc tán gẫu vô ích
không ngừng nghĩ.
Tất cả mọi chúng sanh muốn hạnh phúc và không muốn khổ
đau. Chúng ta sử dụng nhiều trình độ của kỷ thuật cho việc loại trừ khổ đau
không mong muốn trong những hình thức nông cạn và sâu xa của nó, nhưng chính
con người đã dấn thân trong kỷ thuật trong buổi đầu của đời sống họ để tránh khổ
đau về sau này. Cả những người có và không thực tập tôn giáo đã tìm cầu suốt đời
sống của họ để giảm thiểu một số khổ đau và loại trừ những thứ khác, đôi khi
ngay cả chịu đựng đau đớn như một phương tiện để chiến thắng nổi khổ lớn hơn và
đạt được một mức độ nào đó của hạnh phúc.
Mọi người cố gắng để loại trừ khổ đau nông cạn, nhưng có
một loại kỷ thuật khác quan tâm đến việc loại trừ khổ đau ở một trình độ sâu
hơn – mục tiêu giảm thiểu tối đa đến chấm dứt khổ đau trong những kiếp sống
tương lai và, xa hơn thế, ngay cả loại trừ tất cả mọi hình thức khổ đau của tự
thân cũng như cho tất cả chúng sanh. Sự thực tập tâm linh là loại kỷ thuật sâu
sắc này.
Những kỷ thuật này liên hệ đến
việc điều chỉnh thái độ; vì vậy, sự thực tập tâm linh một cách căn bản có nghĩa
là điều chỉnh tư tưởng của ta một cách hợp lý. Trong Sanskrit nó được gọi là
dharma, giáo pháp, có nghĩa là, quy luật, phương pháp, “ngăn lại”. Điều này có
nghĩa là bằng việc điều chỉnh những thái độ chướng ngại ẩn tàng, thì chúng ta
được giải thoát khỏi một trình độ của khổ đau, và vì vậy được ngăn lại khỏi một
sự khổ đau nào đó. Sự thực tập tâm linh bảo vệ, hay ngăn lại, chính ta và những
người khác khỏi khổ đau.
Từ việc trước tiên thấu hiểu
hoàn cảnh của chính ta trong vòng luân hồi và tìm cầu để ngăn lại chính ta khỏi
khổ đau, chúng ta mở rộng việc nhận thức rõ của mình đến những chúng sanh khác
và phát triển lòng từ bi, vốn có nghĩa là tự cống hiến để ngăn lại khổ đau của
người khác. Nó có ý nghĩa thực tiển cho ta, chỉ là một chúng sanh, chọn lựa cho
việc bảo trọng những người khác, nhưng cũng là, bằng việc tập trung vào lợi ích
của những người khác, tự chính ta sẽ hạnh phúc hơn. Lòng từ bi làm giảm sự sợ
hãi về nổi đau của chính ta và gia tăng sức mạnh nội tại. Nó cho ta một cảm
giác truyền lực, của việc có thể hoàn thành nhiệm vụ của ta. Nó giúp sức cho sự
hăng hái.
Để tôi cho quý vị một thí dụ. Mới
đây, khi tôi ở Bồ Đề Đạo Tràng, tôi bị nhiễm trùng đường ruột mãn tính. Trên đường
đến nhà thương, cơn đau ở bụng tôi trở nên nghiêm trọng, và tôi đổ mồ hôi rất
nhiều. Chiếc xe đang đi ngang vùng núi Linh Thứu (nơi Đức Phật giảng kinh), nơi
những dân làng cực kỳ nghèo khó. Trong tổng quát, bang Bihar thì nghèo, nhưng đặc
biệt vùng ấy thậm chí nghèo hơn . Vì vậy tôi ngay cả không thấy trẻ con đến trường
hay đi học. Chỉ sự nghèo cùng. Và bệnh tật, tôi có một ký ức rõ ràng về một bé
trai bại liệt có những thanh kim loại bạc
màu trên đôi chân và đôi nạng kim loại tận nách. Rõ ràng không ai săn sóc cậu
bé. Tôi rất xúc động. Một lát sau, có một ông già ở chỗ bán trà, chỉ có một
mãnh vải dơ bẩn trên thân, té xuống đất, nằm ở đấy mà không ai quan tâm.
Sau này, ở bệnh viện, tư tưởng của
tôi cứ vơ vẫn về những gì tôi đã thấy, quán chiếu vấn đề buồn thảm thế nào khi ở
đây có những người săn sóc cho tôi nhưng những người nghèo khổ ấy không ai để
ý. Đó là chỗ mà tư tưởng của tôi đã diễn biến, thay vì với sự đau khổ của chính
tôi. Mặc dù mồ hôi đang đổ ra khắp thân thể tôi, nhưng sự quan tâm của tôi ở nơi
khác.
Trong cách này, mặc dù thân thể của
tôi đang chịu đựng nhiều đau đớn (một cái lỗ đã thủng trong thành ruột của tôi)
làm giấc ngủ khó khăn, nhưng tâm thức của tôi đã không bị bất cứ sự sợ hãi hay không
thoải mái nào. Hoàn cảnh chỉ có thể tệ hại hơn nếu tôi đã tập trung vào các rắc
rối của chính tôi. Đây là một thí dụ từ một kinh nghiệm nhỏ của tôi về vấn đề một
thái độ từ bi đã hổ trợ ngay cả tự thân, nén lại một mức độ nào đó của nổi đau thân
thể và tránh xa nổi đau tinh thần, mặc dù thực tế người khác có thể không hổ trợ
trực tiếp.
Lòng từ bi làm cho mạnh thêm quan
điểm của ta, và với sự can đảm ấy chúng ta thư thái hơn. Khi nhận thức của ta bao
gồm nổi đau khổ của các chúng sanh, thì nổi khổ đau của riêng ta tương đối nhỏ.
Ẩn Tâm Lộ
Wednesday, August 1, 2018
-***-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét