Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA VÀ HỌC VIỆN TU VIỆN TÂY TẠNG

  


Nguyên tác: The Dalai Lama and the Tibetan Monastic Academia
Tác giả: Thupten Jinpa
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính

***

Vào đầu những năm 1960, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma đã có lần viếng thăm ngắn hạn cộng đồng người tị nạn Tây Tạng ở Dalhousie, trước đây là nơi nghỉ dưỡng mùa hè cho các sĩ quan của hoàng gia Anh, tọa lạc trên những ngọn đồi ngày nay thuộc bang Himachal Pradesh ở miền bắc Ấn Độ. Ngoài cộng đồng là một nhóm nhỏ các nhà sư từ Sera, Drepung và Ganden, ba trường đại học tu viện lớn của Tây Tạng, được biết đến với truyền thống logic và học thuật triết học. Vài giờ sau khi Ngài đến, câu chuyện cũng bắt đầu, Ngài đã triệu tập một phiên tranh luận.

Khi tất cả các học giả tập trung bên trong hội trường, Đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi xuống một cách thoải mái, chuẩn bị cho một bữa tiệc trí tuệ kéo dài. Ngài chọn ngẫu nhiên hai nhà sư và yêu cầu một người ngồi xuống để bảo vệ và người kia đang đứng để mở một cuộc tranh luận. Thật không may, hai người được chọn hóa ra lại không phải là những học giả giỏi nhất trong nhóm. Tuy nhiên, họ bắt đầu cuộc tranh luận của họ. Chẳng mấy chốc, rõ ràng là họ đã đi đến bước đường cùng. Khi cuộc trao đổi giữa những người tranh luận tiến triển, phương ngữ miền đông Tây Tạng của hai nhà sư ngày càng trở nên nặng nề hơn, và chẳng mấy chốc không ai có thể hiểu những gì đang được nói. Không cần phải nói, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lịch sự yêu cầu họ dừng lại và gọi hai nhà sư khác thế chỗ.

Đây là một giai thoại nổi tiếng giữa các học giả của các học viện tu viện Tây Tạng hiện được tái lập ở Ấn Độ. Câu chuyện, mặc dù vui nhộn, cho chúng ta biết chiều sâu niềm đam mê của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với truyền thống trí tuệ hàng nghìn năm tuổi của Tây Tạng về các cuộc tranh luận logic và triết học. Nó cũng như một lời cảnh báo cho các sinh viên trong các trường đại học tu viện vì câu chuyện nhắc nhở chúng ta rằng bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng rơi vào tình huống tương tự như hai nhà sư đó khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thăm các trường đại học tu viện.

Lần đầu tiên tôi có vinh dự được tham gia vào một cuộc tranh luận với sự hiện diện của Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma là vào năm 1980. Đó là một trong những chuyến viếng thăm của Ngài tới các trường đại học tu viện Drepung và Ganden ở Karnataka, miền nam Ấn Độ. Khi đó tôi còn là một sinh viên trẻ tại trường đại học tu viện cộng đồng Shartse Ganden. Ngoài sự lo lắng của bản thân, điều mà tôi nhớ nhất về sự kiện này là sự chú ý nhất tâm của Ngài—tôi có thể nói gần như là sự tập trung giống như thiền định—đối với các cuộc trao đổi. Kể từ đó, tôi đã có vinh dự được trải nghiệm cảnh tượng đầy cảm hứng này trong nhiều dịp.

Những gì tiếp theo trong bài tiểu luận ngắn này là một cái nhìn thoáng qua về một khía cạnh trong đời sống trí thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma, mặc dù có tầm quan trọng đặc biệt, rất ít được biết đến bên ngoài giới Tây Tạng.Tôi đang đề cập đến vai trò và ảnh hưởng của học viện tu viện Tây Tạng đối với cuộc đời và tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhờ hai cuốn tự truyện thành công của Ngaif,1 và gần đây là hai bộ phim của Hollywood, Kundun và Bảy Năm ở Tây Tạng, nhiều người bên ngoài cộng đồng Tây Tạng có cảm giác rằng các nhà sư và học giả đóng một vai trò quan trọng trong sự giáo dục của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng ít người nhận thức được bản chất chính xác của vai trò này, vì làm thế nào họ có thể biết được phạm vi và bản chất của nền giáo dục độc đáo mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận được khi còn trẻ.

Cách tiếp cận của tôi ở đây mang tính ấn tượng hơn là có hệ thống, kết hợp những quan sát cá nhân với những giai thoại mà tôi đã nghe khi còn là một sinh viên trẻ ở Ganden. Tôi sẽ không cố gắng trình bày bất kỳ tường thuật toàn diện nào về đời sống trí năng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một nhiệm vụ tốt hơn nên được giao cho các nhà viết tiểu sử và sử gia chuyên nghiệp. Ngoài ra, còn có những khía cạnh quan trọng khác trong đời sống trí năng của Đức Đạt Lai Lạt Ma chẳng hạn như sự phát triển tư tưởng chính trị và xã hội của Ngài, sự gắn bó sâu rộng của ngài với khoa học hiện đại, sự tương tác của ngài với các nhà thần học, v.v., những điều này phải nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này.

Ngày nay, có nhiều vấn đề quan trọng đang tranh giành thời gian và sự chú ý của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khỏi phải nói, cảnh ngộ của quốc gia Tây Tạng và sáu triệu dân của nó phải đè nặng lên vai Ngài. Vào bất kỳ ngày nào, khi Ngài cư trú tại Dharamsala, người ta có thể thấy một dòng người tị nạn Tây Tạng mới đến gặp Ngài với những tin tức rõ ràng là đau buồn về người dân của Ngài ở quê nhà. Tại Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma và Chính Phủ Lưu Vong của Ngài không chỉ điều phối chiến dịch đòi tự do cho người dân Tây Tạng, họ còn giám sát phúc lợi của hàng ngàn người tị nạn Tây Tạng đang sống rải rác trên khắp thế giới ngày nay. Vấn đề Tây Tạng chắc chắn là trách nhiệm chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma và dường như Ngài có một ý thức lịch sử sâu sắc về nhiệm vụ này. Ngoài ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tự gánh vác trách nhiệm thúc đẩy sự hiểu biết gần gũi hơn giữa các tôn giáo lớn trên thế giới.2 Là một phần của nỗ lực này, ngoài việc tham gia vô số các phụng sự liên tôn giáo, Ngài còn khởi xướng một số cuộc hành hương chung nổi tiếng đến các thánh địa của các truyền thống khác nhau, chẳng hạn như Jerusalem và Lourdes ở Pháp.

Tuy nhiên, có một lĩnh vực quan tâm thứ ba cũng đặt ra yêu cầu mạnh mẽ về thời gian của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là điều mà Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi là 'việc thúc đẩy các giá trị cơ bản của con người'. Trọng tâm của sứ mệnh này là niềm tin rằng các giá trị đạo đức cơ bản như tình yêu thương, lòng từ bi và lòng khoan dung là không thể thiếu đối với hạnh phúc cơ bản của con người và do đó phải được chấp nhận như các nguyên tắc đạo đức ràng buộc phổ quát. Đức Đạt Lai Lạt Ma coi sứ mệnh này là một trách nhiệm cá nhân quan trọng với tư cách là một con người sống trong một thế giới ngày càng phức tạp và liên kết với nhau hơn bao giờ hết.3 Kể từ khi Ngài đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1989, nhu cầu về thời gian của Ngài đối với các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ thứ ba này đã tăng lên theo cấp số nhân. Ngày nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma ngày càng được hàng triệu người coi là biểu tượng mạnh mẽ của hòa bình, công lý, lòng từ bi và nhận thức về môi trường. Tất cả ba 'sứ mệnh' này đều đưa Ngài đi, và thường là xa, khỏi cộng đồng Tây Tạng lưu vong của Ngài.

Bất chấp những đòi hỏi về thời gian của mình, và quan trọng hơn, bất chấp sự nổi lên của Ngài như một nhân vật quốc tế vô cùng được kính trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ chặc chẽ theo truyền thống của mình với các tu viện học thuật Tây Tạng. Ngài thường xuyên đến thăm họ, thuyết trình về các văn bản cổ điển quan trọng, giữ liên lạc chặc chẽ với các học giả trưỡng lão và theo dõi sự tiến bộ của các học giả trẻ mới nổi. Mối quan hệ của Đức Đạt Lai Lạt Ma với học viện tu viện Tây Tạng nói chung và ba tu viện học thuật Geluk 4—Sera, Drepung và Ganden—đặc biệt là một mối quan hệ hấp dẫn. Người ta có thể nói rằng các trường đại học tu viện lớn, đặc biệt là bộ ba nổi tiếng, tạo thành một khu vực cấu thành đặc biệt cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một mặt, Đức Đạt Lai Lạt Ma là một cựu sinh viên được thẩm quyền của các tổ chức này công nhận chính thức về giáo dục. Nhờ năng khiếu lưu trữ của một số cá nhân, khán giả truyền hình hiện đại trên toàn thế giới vẫn có thể chứng kiến nghi thức chính thức của kỳ thi cuối cùng của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Lhasa với sự hiện diện của hàng nghìn nhà sư. Trước sự kiện này, Ngài đã đến thăm từng trường trong số ba trường đại học tu viện để dự các kỳ thi tranh luận riêng biệt.

Mặt khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma không có tên trong danh sách của bất kỳ trường đại học nào trong số này. Hơn nữa, việc bổ nhiệm các viện trưởng của các trường đại học riêng lẻ của ba trường đại học tu viện, mặc dù dựa trên sự lựa chọn ứng cử viên của các thành viên của tu viện, vẫn do Đức Đạt Lai Lạt Ma quyết định.

Về mặt lịch sử, cho đến thời kỳ Đức Đạt Lai Lạt Ma Đệ Ngũ Vĩ đại, về mặt chính thức, các Đức Đạt Lai Lạt Ma là một vị lạt ma tái sinh, mặc dù rất cao, của trường đại học Loseling thuộc trường đại học tu viện Drepung. Trên thực tế, tên của chính phủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng, Ganden Phodrang, trước đây thuộc về cơ quan của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Drepung. Kể từ khi Đức Đạt Lai Lạt Ma Đệ Ngũ Vĩ đại nắm quyền vào giữa thế kỷ 17, thể chế của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở thành chính phủ Tây Tạng.5 Tuy nhiên, các Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn tiếp tục được giáo dục theo đúng chương trình giảng dạy của các tu viện học thuật Geluk, và những người hướng dẫn đã tốt nghiệp các trường đại học này. Ví dụ, trong số hai vị thầy chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Kyabje Ling Rinpoche là một học giả có tiếng tăm dữ dội từ Drepung, trong khi Kyabje Trijhang Rinpoche là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của Ganden trong thế kỷ 20. Ngoài ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại có một số phụ tá học thuật (tshen shap) chẳng hạn như học giả Mông Cổ Ngodup Tsoknyi và cố Serkong Tsenshap Rinpoche, tất cả đều tốt nghiệp tại các tu viện Geluk.

Cốt lõi của chương trình giảng dạy hàn lâm tu viện Tây Tạng đòi hỏi một sự đào tạo có hệ thống cao về logic và nhận thức luận, nghiên cứu triết học về bản chất của thực tại, nghiên cứu chi tiết về bản chất và các loại kinh nghiệm tôn giáo, cuộc điều tra tâm lý và hiện tượng học về bản chất của tâm trí và các phương thức của nó, và tất nhiên, một nghiên cứu chi tiết về đạo đức. Cùng với nhau, năm lĩnh vực kiến thức này được gọi là nghiên cứu về Ngũ đại luận (shung chen ka po nga). Trong số này, nghiên cứu về nguyên tắc đầu tiên, logic và nhận thức luận, chủ yếu dựa trên các tác phẩm của các nhà tư tưởng Ấn Độ Trần Na - Dignaga (c. 400-485 c e)6 và Pháp Xứng - Dharmakirti (c. 650 c e) và các nhà bình luận Ấn Độ và Tây Tạng sau đó của họ.

Nghiên cứu về nguyên tắc thứ hai, có lẽ được đặc trưng nhất trong ngôn ngữ đương thời là siêu hình học và bản thể học, chủ yếu dựa trên các tác phẩm của triết gia Ấn Độ có ảnh hưởng lớn Long Thọ - Nagarjuna (khoảng 150-250 c.e) và những người giải thích chính của ông như Phật Hộ - Buddhapalita (c. 470-540 CE) và Pháp Xứng - Chandrakirti (khoảng 650 CE). Trong lĩnh vực nghiên cứu thứ ba, các tác phẩm của các bậc thầy Ấn Độ như Di Lặc - Maitreyanatha (c. 270-350 c e ), Vô Trước ( c. 310-390 c e ) và Sư Tử Hiền Haribhadra ( c. thế kỷ thứ 8 c e ) tạo thành các văn bản cốt lõi. Đối với việc nghiên cứu tâm lý học và hiện tượng học, các tác phẩm chính tạo thành cơ sở nghiên cứu là của Vô Trước và em của ông là Thế Thân ( c. 320—400 c e ). Cuối cùng, đối với việc nghiên cứu đạo đức, các văn bản trung tâm là những văn bản liên quan chủ yếu đến việc phân tích chi tiết các giới luật của giới luật tu viện. Việc thông thạo năm lĩnh vực nghiên cứu này là cần thiết nếu ứng viên đủ tiêu chuẩn cho danh hiệu Geshe Lharam, tương đương với bằng tiến sĩ thần học của người Tây Tạng. Ngẫu nhiên, đây là bằng cấp giáo dục đại học chính thức mà Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại đang nắm giữ.

Phương tiện chính của việc đào tạo hàn lâm trong tu viện Tây Tạng là tranh luận, một phong cách tranh luận kiểu Socrates có tính hệ thống cao, hoạt động thông qua việc vạch ra một loạt các hậu quả, thường là không thể chấp nhận được đối với người bảo vệ, dựa trên cơ sở của các luận đề đã nêu của đối phương. Hệ thống tranh luận này sử dụng rộng rãi các nguyên tắc đồng nhất, mâu thuẫn và quy luật trung gian bị loại trừ, nằm ở trung tâm của logic suy diễn và quy nạp. Các nhà sử học Tây Tạng công nhận Chapa Chokyi Senge (1109-1169) với sự phát triển của hệ thống điều tra phức tạp này. Người ta tin rằng Chapa là tác giả của một số văn bản ngắn có tựa đề là Những chủ đề được sưu tầm {Du don), trình bày một cách tài tình hướng dẫn cách xử lý có phê phán nhiều chủ đề logic và nhận thức luận từ tác phẩm tiêu biểu của Pháp Xứng - Dharmakirti Sự trình bày thấu đáo về nhận thức giá trị (Pramanavarttika) 7 Sự xuất sắc của Chapa nằm ở việc minh họa các nguyên tắc logic trong một loạt các cuộc tranh luận có cấu trúc bằng cách sử dụng ví dụ về các chủ đề phổ biến hàng ngày.

Ngày nay, toàn bộ thể loại văn học tồn tại trong các nghiên cứu học thuật của tu viện Tây Tạng mang nhãn hiệu Chủ Đề Được Sưu Tầm. Những văn bản này được viết theo cách mà chúng có thể được sử dụng một cách hiệu quả, đó là trường hợp ngày nay, như những cẩm nang đào tạo sinh viên trẻ về nghệ thuật tranh luận và làm quen với hoạt động của các nguyên tắc logic chính.

Đó là loại đào tạo trí tuệ cường độ cao mà ông đã nhận được trong những năm sinh viên của mình. Các nhà lý luận giáo dục Tây Tạng nói về ba khía cạnh của trí thông minh phải được trau dồi và phát triển. Đầu tiên, đó là “trí thông minh rõ ràng”, đề cập đến khả năng nhận thức các câu hỏi với tâm trí không bối rối. Thứ hai là “trí thông minh nhạy bén”, chỉ khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh chóng mà không gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng là “trí thông minh thâm nhập”, đề cập đến khả năng nhìn nhận vấn đề với chiều sâu và toàn diện hơn.

Tranh luận được cho là giúp nâng cao cả ba khía cạnh trí thông minh này ở mỗi cá nhân, điều này rất quan trọng cho sự phát triển của một trí tuệ uyên bác. Người ta nói rằng những người xuất sắc ở loại trí thông minh đầu tiên thường có năng khiếu diễn đạt cao, trong khi những người xuất sắc ở loại thứ hai trở thành những nhà tranh luận dày dặn, có khả năng phá vỡ lập trường vững chắc của đối phương. Cuối cùng, những người xuất sắc trong loại trí thông minh thứ ba được cho là trở thành những người bảo vệ tuyệt vời, có khả năng áp dụng một viễn cảnh toàn cảnh về bất kỳ chủ đề được lựa chọn nào để tìm hiểu. Những ai đã từng nghe về Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ nhớ lại tất cả ba khía cạnh này của trí thông minh.

Nếu có một điều mà Đức Đạt Lai Lạt Ma cảm thấy mình đã đánh mất khi còn trẻ thì có lẽ đó là việc không có được sự tự do mà một nhà sư bình thường thường được hưởng khi còn là sinh viên trong các trường cao đẳng tu viện. Ngài thỉnh thoảng lý tưởng hóa cái được gọi là cuộc sống của một drapa drakyang, được dịch đúng nhất là cuộc sống của một nhà sư bình thường, đơn giản và không ràng buộc. Thật ra, khi tôi còn là một sinh viên ở Ganden, Ngài đã từng nói với tôi rằng tôi may mắn có được, không giống như Ngài, cơ hội duy nhất này để trở thành một sinh viên như một nhà sư giản dị, bình thường. Tôi phải thừa nhận rằng lúc đó tôi hơi ngạc nhiên.

Có lẽ, từ quan điểm của giáo dục đương đại, một trong những đặc điểm đáng ngưỡng mộ nhất của đào tạo tranh luận học thuật của Tây Tạng là nó nhấn mạnh tầm quan trọng của tính cởi mở. Các sân tranh luận trong các tu viện học thuật là một trong những nơi tốt nhất để dạy về sự khiêm tốn. Vào bất kỳ ngày nào, các tu sinh và học giả dày dạn kinh nghiệm thường xuyên phải đối mặt với trải nghiệm khiêm tốn khi phải sửa đổi quan điểm của mình, một số trong đó có thể họ đã giữ vững lâu dài với mức độ tin cậy cao. Trên thực tế, khi điều này xảy ra, cá nhân được cho là sẽ trưởng thành hơn khi người đó đạt được cái gọi là 'sự bùng nổ của sự phát triển trong hiểu biết' (lo kye). Khi điều này xảy ra, thường có một cảm giác rõ ràng về sự thừa nhận tập thể từ phía mọi người tham gia thảo luận.

Sự bùng nổ về hiểu biết này phát sinh trong bối cảnh một người trao đổi với các đồng viện đang tranh luận. Do đó, người ta thường nói rằng các đồng viện đang tranh luận của một người cũng là những người thầy như giáo thọ của họ. Chính loại hình đào tạo học thuật này tạo điều kiện cho cá nhân có sự chuẩn bị sẵn sàng để thay đổi vị trí của mình dưới ánh sáng của những hiểu biết mới. Việc đào tạo như vậy cũng dạy tu sinh không nên quá coi trọng bản thân. Bất kỳ ai đã chứng kiến ​​màn biểu diễn trực tiếp nghệ thuật thẩm tra phản biện mang tính tu viện này sẽ nhớ lại tiếng cười và sự sống động của bầu không khí đi kèm với sự trao đổi giữa các bên khác nhau trong cuộc tranh luận. Cũng có điều gì đó rất khoa học về phương pháp thẩm tra bình phẩm này.

Quá trình đào tạo hàn lâm cổ điển của Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như đã để lại một tác động lâu dài cả về nhân cách lẫn tư tưởng của Ngài.Mặc dù tiếp xúc nhiều với tính hiện đại và tư tưởng phương Tây đương đại, nhưng sự đánh giá cao của Ngài đối với truyền thống kinh viện của Tây Tạng vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trên thực tế, thế giới quan của Ngài vẫn bắt nguồn sâu xa từ những lời dạy cổ xưa của Đức Phật và truyền thống triết học đã phát triển trên cơ sở những điều này trong hơn hai thiên niên kỷ ở Ấn Độ và Tây Tạng. Niềm tin vào những ý tưởng đạo đức tôn giáo như nghiệp chướng, khả năng tái sanh, tiềm năng hoàn hảo tự nhiên được cho là tồn tại ở con người, v.v., tạo thành nền tảng của thế giới quan Phật giáo, và những điều này vẫn giữ nguyên sức mạnh và sự sống động của chúng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ở cấp độ triết học, chính siêu hình học chống chủ nghĩa duy bản chất của Long Thọ và sự bác bỏ của Ngài đối với bất kỳ quan niệm vật chất nào về thực tại bản thể đã cho thấy sự hiểu biết của Đức Đạt Lai Lạt Ma về bản chất của thực tại. Như Ngài thường chỉ ra, hầu như theo kiểu một phương châm, mọi thứ đều là 'duyên khởi' và tồn tại trong mối quan hệ của 'mối quan hệ qua lại', không có thực thể kín đáo nào tồn tại độc lập 'liên quan' với nhau. Chính triết lý cơ bản về sự liên kết của thế giới này đã làm nền tảng cho quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về thế giới tự nhiên.

Một trong những trải nghiệm đáng nhớ nhất trong những năm tu viện của tôi là được nhìn thoáng qua bản sao cá nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma được chú giải rất nhiều về tác phẩm triết học cổ điển Căn Bản Trung Quán Luận (Mulamadhyamakarika) của Ngài Long Thọ.8 Tôi đang đi cùng Ngài với tư cách là thông dịch viên của Ngài và chúng tôi đang đợi ở phòng chờ sân bay ở Mumbai cho chuyến bay của Hãng hàng không Ấn Độ của chúng tôi đã bị hoãn vài giờ. Ngay khi nghi thức chính thức được nhà chức trách sân bay tiếp đón hoàn tất, Đức Đạt Lai Lạt Ma lục trong chiếc đãi của mình và lấy ra cuốn sách của Ngài Long Thọ và bắt đầu nghiên cứu sâu. Được chứng kiến Ngài tiếp cận bản văn này gần như khi còn là một sinh viên là một trải nghiệm thật sự khiêm tốn nhưng đầy cảm hứng nhất, đặc biệt là khi tôi đang 'thuyết giảng' về bản văn này tại tu viện Ganden.

Trong số các nhà tư tưởng Tây Tạng, chắc chắn nhà cải cách và triết gia vĩ đại của Tây Tạng Tsong Khapa (1357-1419) dường như có ảnh hưởng lớn nhất đối với quan điểm triết học của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Có một số dòng tư tưởng không thể nhầm lẫn của Tsong Khapa liên tục vang vọng nhiều hơn trong các tác phẩm triết học của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ví dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường viện dẫn một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng, lần đầu tiên được Tsong Khapa phát triển đầy đủ như một nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc này nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa những gì bị phủ nhận thông qua một phương pháp điều tra cụ thể và những gì không được quan sát thông qua một phương pháp như vậy. Nói cách khác, Ngài nhắc nhở chúng ta đừng nhầm lẫn hai quá trình 'không tìm thấy thứ gì đó' và ‘thấy sự không tồn tại của nó'. Vì vậy, đối với Tsong Khapa, đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng vậy, không thấy cái gì đó không phải là thấy cái không tồn tại của nó. Đây là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng mà Đức Đạt Lai Lạt Ma mang đến khi Ngài tham gia vào các cuộc đối thoại với tư tưởng đương đại, đặc biệt là khoa học hiện đại. Hơn nữa, với niềm tin không thể lay chuyển của Ngài vào tiềm năng giải phóng của tư duy phản biện, mà Ngài gọi là 'thiền phân tích', người ta cũng có thể thấy ảnh hưởng không thể nhầm lẫn của các tác phẩm của Tsong Khapa.9

Tương tự, sự hiểu biết của Đức Đạt Lai Lạt Ma về tâm lý con người—bản chất của cảm xúc, mối quan hệ giữa lý trí và cảm xúc, mối liên hệ giữa một số cảm xúc và hành vi, cách đối phó với những khuynh hướng tiêu cực của một số cảm xúc, v.v. như thế nào—bắt nguồn từ lịch sử lâu dài. của tư duy tâm lý học và hiện tượng học Phật giáo, hơn là tư tưởng phương Tây đương thời. Cái sau bao gồm, trong số những lý thuyết khác, các lý thuyết phân tâm học có ảnh hưởng của Sigmund Freud và, tất nhiên, nhiều khía cạnh của các ngành khoa học nhận thức. Điều này không có nghĩa là không có sự hội tụ giữa hai truyền thống trí tuệ. Ví dụ, song song với khái niệm phân tâm học về vô thức, trong tâm lý học Phật giáo có một khái niệm về cái được gọi là “khuynh hướng” cho những cảm xúc cụ thể.10 Không giống như bản thân các cảm xúc, những xu hướng này được cho là không phải là các trạng thái nhận thức thực tế, rõ ràng, được cảm nhận. Thay vào đó, chúng tồn tại nhiều hơn dưới dạng lực 'tiềm thức'.

Khi giải quyết các khía cạnh nhận thức của tâm hồn con người, sự hiểu biết của Đức Đạt Lai Lạt Ma về bản chất của nhận thức và kinh nghiệm, các quá trình nhận thức liên quan đến việc tạo ra suy luận, các định nghĩa về kiến ​​thức, v.v., một lần nữa, dựa trên các tác phẩm của các triết gia Phật giáo chứ không phải trên các công trình của khoa học nhận thức đương đại. Tôi nhớ một lần, trong một cuộc đối thoại với một số nhà khoa học về nhận thức, Đức Đạt Lai Lạt Ma, sau khi lắng nghe cách hiểu khoa học về cách một khoảnh khắc nhận thức xảy ra, đã ngay lập tức cố gắng dịch điều này sang ngôn ngữ của nhận thức luận Tây Tạng. Trọng tâm của hệ thống Tây Tạng này là bảy loại nhận thức: (1) nhận thức, (2) suy luận, (3) giả định đúng, (4) nhận thức không chú ý, (5) nhận thức tiếp theo, (6) nghi ngờ, và (7) nhận thức sai lầm. Bản chất, nhân quả và mối tương quan của bảy loại nhận thức này tạo thành trọng tâm chính của tư duy nhận thức luận Tây Tạng cho đến ngày nay.

Điểm tôi đang cố gắng thực hiện là điều này. Thế giới quan trí tuệ và đạo đức của Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bắt nguồn từ di sản cổ điển Tây Tạng. Ngài ủng hộ lòng trắc ẩn như một nguyên tắc tinh thần phổ quát, niềm tin của Ngài vào bản chất tốt đẹp cơ bản của con người, niềm tin bền bỉ của Ngài vào sức mạnh của bất bạo động như một phương tiện giải quyết xung đột của con người, sự ủng hộ nhiệt thành của Ngài về lòng vị tha như một phương tiện hiệu quả để đạt được hạnh phúc cá nhân, tất cả đều bắt nguồn từ giáo lý của Đức Phật.

Ở đây một lần nữa, hai nhà tư tưởng Ấn Độ cổ điển nổi bật về ảnh hưởng của họ đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Họ là Long Thọ (Nagarjuna) và Tịch Thiên (Shantideva), tác giả của tác phẩm kinh điển Phật giáo nổi tiếng vào thế kỷ thứ 7, Hướng dẫn về Lối sống của Bồ tát (Bodhicharyavatara). Trên thực tế, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần tuyên bố rằng nguồn cảm hứng lớn nhất của Ngài là câu kệ sau đây của Ngài Tịch Thiên:

Khi nào không gian còn tồn tại,
Khi nào chúng sanh còn hiện hữu,
Cho đến lúc đó, tôi nguyện cũng hiện diện
Và xua tan những khổ đau của chúng sanh.12

Một lĩnh vực mà quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma có cơ sở vững chắc trong khoa học hiện đại hơn là tư tưởng Phật giáo cổ điển được thừa hưởng của riêng Ngài là vũ trụ học. Ở đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như đã từ bỏ toàn bộ hệ thống vũ trụ bắt nguồn từ tác phẩm kinh điển Phật giáo có ảnh hưởng lớn mang tên Kho tàng Tri thức {Abhidharmakoshakarika), được viết bởi Vasubhandu vào thế kỷ thứ 4.

Một lĩnh vực mà quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma có cơ sở vững chắc trong khoa học hiện đại hơn là tư tưởng Phật giáo cổ điển được thừa hưởng của riêng Ngài là vũ trụ học. Ở đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như đã từ bỏ toàn bộ hệ thống vũ trụ bắt nguồn từ tác phẩm kinh điển Phật giáo có ảnh hưởng lớn mang tên Kho tàng Tri thức (A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng-Abhidharmakoshakarika), được viết bởi Vasubhandu vào thế kỷ thứ 4. Giống như nhiều lý thuyết vũ trụ học hiện nay trong tư tưởng Ấn Độ cổ đại, trong vũ trụ học của Thế Thân, được gọi là 'A Tỳ Đạt Ma vũ trụ học', mặt trời và mặt trăng quay quanh trái đất, và mặt trăng được cho là được hỗ trợ bởi các lực của bốn nguyên tố, được xếp chồng lên nhau. nhau theo thứ tự tăng dần. Đánh giá qua những bình luận của Ngài về vũ trụ học A Tỳ Đạt Ma cổ điển, có vẻ như Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa bao giờ bị thuyết phục về tính đồng nhất của hệ thống. Cũng có một sự trùng hợp đơn giản là trước khi Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi được tiếp xúc với những điều phức tạp của vũ trụ học A Tỳ Đạt Ma cổ điển, điều mà theo truyền thống xảy ra muộn hơn nhiều trong học thuật hàn lâm của một người, thì ngài đã được giới thiệu một số biểu tượng mạnh mẽ của vũ trụ học hiện đại, chẳng hạn như quả địa cầu. bản đồ và hình ảnh của các miệng núi lửa trên bề mặt của mặt trăng. Ngài cũng nhận thức được các giải thích khoa học, trái ngược với các giải thích cổ điển của Phật giáo về sự xuất hiện của nhật thực và nguyệt thực.

Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma đã từng than thở rằng Ngài không hiểu tại sao nhiều học giả cao cấp của Tây Tạng trong các trường cao đẳng tu viện lại miễn cưỡng từ bỏ các lý thuyết vũ trụ cổ đại. Theo suy nghĩ của Ngài, phần lớn vũ trụ học này đã bị làm sai lệch bởi sức nặng của bằng chứng thực nghiệm do các nhà khoa học hiện đại thu thập. Và cho rằng các nhà sư kinh viện được đào tạo trong hệ thống tranh luận triết học có điều kiện để sửa đổi quan điểm của họ dưới ánh sáng của những hiểu biết mới, Ngài cảm thấy rằng chỉ có tình cảm gắn bó với các lý thuyết cũ mới cản trở việc các học giả chấp nhận vũ trụ học mới. Tôi cảm nhận được một chút sốt ruột hiếm thấy nơi Ngài. Khi đó tôi đã tốt nghiệp tại Ganden và cảm thấy rằng ít nhất tôi nên cố gắng trình bày trường hợp của những học giả Tây Tạng cao cấp này.

Một cách lịch sự, tôi đã nhắc nhở Ngài rằng bất chấp việc thiếu nền tảng khoa học hiện đại, thì hệ thống A Tỳ Đạt Ma vẫn 'hoạt động' cho đến nay đối với những người ủng hộ hệ thống này. Ví dụ, dựa trên hệ thống này, niên giám được tạo ra, dự đoán nhật thực và nguyệt thực có độ chính xác cao, dự đoán độ dài thay đổi của ánh sáng ban ngày và tính toán chính xác vị trí của các vì sao được phát triển. Nói cách khác, hệ thống V A Tỳ Đạt Ma đưa ra những tiên đoán về các sự kiện có thể quan sát được và rất phù hợp với cuộc sống hàng ngày của con người. Tôi cho rằng sẽ không thực tế nếu các nhà sư từ bỏ mô hình này cho đến khi họ được giải thích làm thế nào mà mỗi sự kiện này cũng được hỗ trợ trong vũ trụ học mới, thay thế, ngoài ra còn có một nền tảng thực nghiệm vững chắc. Kể từ đó, tôi nhận thấy rằng Ngài đã đánh giá cao hơn nhiều về quan điểm của các đồng nghiệp cấp cao của mình về vũ trụ học.

Chính loại bối cảnh phức tạp này thường đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại với các tu viện hàn lâm cổ điển của Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma không chỉ ở đó để quan sát sự tiến bộ của các học giả mới nổi, mà ngài còn ở đó để kích thích sự phát triển trí tuệ của họ. Điều này càng trở nên cần thiết hơn khi Ngài dấn thân ngày càng sâu hơn vào các cuộc đối thoại với các nhà khoa học và các nhà tư tưởng thuộc nhiều lĩnh vực đương đại khác nhau.13 Ở đây tôi đang đề cập đến Shakor Gen Nyima-la quá cố từ trường cao đẳng tu viện Drepung Loseling, người là một trong những người thông dịch vĩ đại nhất của thế kỷ 20 về các tác phẩm triết học của Long Thọ và Tsong Khapa. Một lần, trong một cuộc trò chuyện, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với tôi rằng Ngài cảm thấy rằng ở Gen Nyima-la, Ngài đã thấy một người không chỉ thâm nhập vào những hiểu biết sâu sắc của Long Thọ, mà còn là người có thể đưa chúng vào cuộc sống. Sau đó, Ngài than thở rằng hầu như không có bất kỳ bài giảng nào của Gen Nyima-la được ghi lại! Bản thân tôi đã có vinh dự được tham dự một loạt bài giảng mà học giả vĩ đại này đã giảng về một tác phẩm có ảnh hưởng của Tsong Khapa tại Drepung.

Chắc hẳn Đức Đạt Lai Lạt Ma rất sảng khoái khi giao lưu về mặt trí tuệ với một học giả cao cấp như Gen Nyima-la, người đã có thể liên hệ với Đức Đạt Lai Lạt Ma như một đồng nghiệp chân chính. Không giống như hầu hết các học giả Tây Tạng trong cộng đồng lưu vong ở Ấn Độ và Nepal, Gen Nyima-la không bị choáng ngợp bởi sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Điều này một phần là do, giống như hai người thầy quá cố của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Gen Nyima-la đã chứng kiến sự phát triển trí tuệ của Ngài kể từ khi Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma còn là một tu sinh trẻ.

Cũng có thể hình dung rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận thấy bầu không khí của học viện tu viện là một điểm tương phản khá nghiêm túc đối với nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống rất công khai của Ngài. Đó là một lĩnh vực mà Ngài không được kỳ vọng là người có thẩm quyền ‘lớn’. Hơn nữa, trao đổi những quan điểm đa dạng và thường đối lập nhau là một phần của văn hóa tri thức của học viện tu viện. Thỉnh thoảng, Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng một loạt bài chính thức về một chuyên luận triết học quan trọng tại một trong ba trường đại học tu viện. Trung bình, những bài giảng này sẽ kéo dài từ hai đến ba tuần. Trong những dịp này, các buổi tranh luận chính thức được tổ chức vào buổi tối, nơi các học giả hàng đầu của học viện tu viện tranh luận về các vấn đề được đề cập trong văn bản mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đang thuyết trình, trong khi Ngài lắng nghe với sự tập trung hoàn toàn. Không cần phải nói, đây là những sự kiện thật sự kích thích.

Có lẽ còn quá sớm để đánh giá đâu sẽ là di sản trí tuệ lâu dài của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với giới học viện tu viện Tây Tạng. Không giống như nhiều người tiền nhiệm của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại cho đến nay đã không chọn viết bất kỳ chuyên luận học thuật quan trọng nào bằng tiếng Tây Tạng. Tuy nhiên, trong số tất cả những người Tây Tạng đã có một nền giáo dục thực sự cổ điển, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tham gia nhiều nhất vào các lĩnh vực học thuật khác nhau của tư tưởng phương Tây đương đại, đặc biệt là khoa học. Chắc chắn các nhà sử học sẽ đặc biệt lưu ý đến thực tế này và nhận ra rằng theo nhiều cách, cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ánh bức tranh rộng lớn hơn về sự gặp gỡ của văn hóa cổ điển Tây Tạng với hiện đại./.

Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét