Nguyên tác:The Dalai Lama and India
Tác giả: Dalip Mehta
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***
Trong 44 năm qua, Ấn Độ đã may mắn có được sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma
trên lãnh thổ của mình. Ấn Độ từ lâu đã nổi tiếng là vùng đất
nơi các nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại phát triển mạnh mẽ; một vùng đất nơi những
người bị bức hại đã tìm được nơi ẩn náu và cuối cùng làm nhà của họ, thêm một mảnh
nữa vào bức tranh khảm phong phú đó là xã hội đa văn hóa, đa dạng của Ấn Độ.
Sự
xuất hiện của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào tháng 3 năm 1959, theo sau là hàng ngàn
người dân của Ngài đã cung cấp bằng chứng đáng hoan nghênh rằng những truyền thống
quý giá này vẫn còn tồn tại.
Ở đất nước của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma được tôn kính như một vị Thánh Vương,
nhưng ít được biết đến bên ngoài. Trong những năm dài sống
lưu vong ở Ấn Độ, Ngài đã trở thành một trong những nhà lãnh đạo được yêu mến
và kính trọng nhất thế giới. Đáng chú ý không kém, Ngài đã thành
công trong việc duy trì những khát vọng và hy vọng của người dân Tây Tạng và bảo
tồn nền văn hóa độc đáo của Tây Tạng. Ngài đã hoàn thành nhiệm
vụ tế nhị là tuân thủ các nguyên tắc của mình, đồng thời không gây nguy hiểm
cho lợi ích của quê hương cho tị nạn. Và Ngài đã đảm bảo rằng
cộng đồng người Tây Tạng hải ngoại, không chỉ ở Ấn Độ mà còn ở những nơi khác
trên thế giới, đã phát triển và tiến bộ trong thế giới hiện đại, ngay cả khi vẫn
duy trì nguồn gốc từ truyền thống của họ. Trong cuộc tìm kiếm ‘tự
do lưu vong’ ở Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma có lẽ đã đạt được nhiều hơn những gì Ngài
có thể đạt được nếu số phận không buộc Ngài phải chạy trốn khỏi Tây Tạng.
Cuộc xâm lược và chiếm đóng Tây Tạng của Tàu Cộng vào năm 1950, và sự đàn áp
tàn bạo của nước này đối với cuộc nổi dậy của dân tộc Tây Tạng ở Lhasa vào năm
1959 cuối cùng đã thuyết phục được Đức Đạt Lai Lạt Ma xin tị nạn chính trị ở Ấn
Độ. Trong
những năm hỗn loạn sau đó, người Tàu Cộng đã phá hủy một cách có hệ thống nền
văn hóa và văn minh của Tây Tạng với hy vọng rằng nó sẽ trở thành một khu vực
không thể phân biệt được nữa của Cộng hòa Nhân dân, đánh mất bản sắc riêng biệt
và khác biệt của nó.
Có nhiều quan điểm khác nhau về tình trạng pháp lý của Tây Tạng, nhưng Đức Đạt
Lai Lạt Ma và những người khác đã lập luận một cách thuyết phục rằng trong suốt
lịch sử của mình, Tây Tạng vẫn là một quốc gia độc lập và rằng nó chưa bao giờ
là một phần của bất kỳ quốc gia nào khác, mặc dù giống như nhiều quốc gia khác
bị xâm lược và lần lượt chiếm đóng các lãnh thổ thuộc về các quốc gia khác.
Do
đó, người Tây Tạng đã thất vọng cay đắng khi vào năm 1954, Ấn Độ ký một thỏa
thuận với Tàu Cộng công nhận Tây Tạng là một phần của Trung Hoa. Khi làm như vậy,
Ấn Độ, theo một nghĩa nào đó, đã thay đổi bản sắc chính trị và lịch sử của Tây
Tạng. Bằng cách mô tả Tây Tạng trong một thỏa thuận chính thức là 'khu vực Tây
Tạng của Trung Hoa’, chủ quyền của Trung Hoa đối với Tây Tạng đã được trao cho
tính hợp pháp.
Tuy nhiên, yêu cầu xin tị nạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được chính phủ của
Nehru chấp thuận ngay lập tức, chính phủ này đã tiếp đón Ngài một cách vinh dự
khi Ngài đến vào cuối tháng 3 năm 1959, và chính tại Ấn Độ, Ngài đã tiếp tục sống
kể từ đó, truyền cảm hứng cho người dân của Ngài, cả bên trong Tây Tạng và bên
ngoài, và giữ cho tinh thần tự do của họ tồn tại. Quyết
định của Nehru thật sự là một quyết định dũng cảm, vì ông hoàn toàn nhận ra rằng
mối quan hệ vốn đã khó khăn với Tàu Cộng sẽ còn phức tạp hơn vào thời điểm mà ông tin rằng
tình hữu nghị giữa Ấn Độ và Trung Hoa là điều cần thiết cho hòa bình ở châu Á.
Mặc dù việc cấp quy chế tị nạn cho Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là lý do duy
nhất khiến quan hệ giữa hai nước trở nên xấu đi, nhưng nó vẫn tiếp tục là nguồn
gốc của xích mích trong nhiều năm và là điều mà Tàu Cộng không bao giờ tha thứ
cho Ấn Độ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma rời quê hương với sự miễn cưỡng lớn nhất và nhiều cuộc tranh
luận giữa các cố vấn của Ngài, vì không phải là một quyết định dễ dàng khi bỏ lại
sau lưng sáu triệu đồng bào, những người coi Ngài như vị thần và vị vua của họ,
và trong những thời điểm khó khăn, là vị cứu tinh và niềm hy vọng duy nhất của
họ. Tuy
nhiên, niềm tin của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng Ngài có thể làm được nhiều điều hơn
cho người dân và đất nước của mình từ sự tự do mà Ngài sẽ được hưởng ở Ấn Độ
hơn là những ràng buộc ngột ngạt do Tàu Cộng đặt ra cho Ngài ở Lhasa, điều cuối
cùng đã thuyết phục Ngài rời khỏi đất nước của mình.
Ở tuổi 24, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy mình khác xa với thế giới trung cổ kín mít
mà ngài đã bỏ lại phía sau ở Tây Tạng, và dấn thân vào những mối quan hệ phức tạp
giữa các quốc gia ở cấp độ cao nhất, nơi mà những người tham gia đều cao chót
vót tư cách như Nehru, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai trong số những người khác.
Trong
thế giới này, Đức Đạt Lai Lạt Ma thiếu kinh nghiệm đã tìm cách đạt được hai mục
tiêu là độc lập cho Tây Tạng, bảo tồn và tiếp nối các truyền thống tôn giáo và
văn hóa của đất nước mình. Ngài đã sớm nhận ra trong sự nghiệp
chính trị của mình rằng bạo lực và vũ lực không bao giờ có thể đánh bại được sức
mạnh của Tàu Cộng. Ngài đã học được từ Mahatma Gandhi, người
mà Ngài vô cùng ngưỡng mộ, rằng bất bạo động là cách duy nhất để tiến hành
chính trị và không phải là một phản ứng thụ động, nó là một trong những can đảm
đạo đức tuyệt vời và hiệu quả hơn nhiều so với việc sử dụng vũ lực.
Ngay sau khi đến Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thành lập Chính phủ Lưu vong của
mình, và mặc dù chưa bao giờ được chính phủ Ấn Độ chính thức công nhận, nhưng
nó đã được phép hoạt động mà không bị cản trở. Như chính Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã nói, chính phủ Ấn Độ thường phản đối kịch liệt quan điểm của Ngài
nhưng chưa bao giờ làm bất cứ điều gì để ngăn cản Ngài giữ quan điểm đó, cũng
như việc bày tỏ quan điểm đó. Không có sự can thiệp nào từ Delhi
về cách Ngài và những người Tây Tạng nên cư xử trong cuộc sống của họ như thế
nào. Như
Nehru đã nói với Ngài, Ấn Độ là một quốc gia tự do nên Ngài có 'hoàn toàn tự do
làm theo lương tâm của mình'. Ngày nay, chính phủ của Đức Đạt Lai
Lạt Ma, được gọi là Chính quyền Trung ương Tây Tạng, hoạt động với mọi mục đích
như một cơ quan hướng dẫn cuộc sống của hơn 100.000 người Tây Tạng hải ngoại sống
rải rác ở hàng chục quốc gia.
Trong nhiều năm, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp xúc với mọi thủ tướng của Ấn Độ độc
lập. Mối
quan hệ với một số vị thì thân mật, trong khi với những vị khác thì nghi thức
và phải lẽ. Tuy nhiên, không có ngoại lệ, tất cả họ đều đánh giá
cao Ngài. Trong số các nhân vật chính trị Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt nhớ
lại mối quan hệ của Ngài với Rajagopalachari, Rajendra Prasad, Jaya Prakash
Narayan và Acharya Kripalani. Ngài coi Lai Bahadur Shastri là một
nhà lãnh đạo xuất sắc, người đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho Ngài. Mối
quan hệ của Ngài với Nehru, thường phức tạp bởi những ràng buộc chính trị khác
nhau, đôi khi dẫn đến chán chường và thất vọng, nhưng không làm mất đi sự ngưỡng
mộ của Ngài đối với một người đàn ông có lòng nhân đạo, chủ nghĩa tự do và lòng
hào hiệp. Ngài cũng có mối quan hệ cá nhân thân thiết với
Indira Gandhi, người thường tâm sự với Ngài, ngay cả về các vấn đề quốc gia.
Trong tất cả các giao dịch của mình với giới lãnh đạo Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma
luôn ghi nhớ những vấn đề nhạy cảm và lợi ích quốc gia của Ấn Độ, ngay cả khi
theo đuổi các mục tiêu của riêng mình, và đã không ngừng bày tỏ sự đánh giá cao
của mình đối với sự nồng hậu và lòng hiếu khách mà ông đã nhận được từ người
dân và chính phủ Ấn Độ. Chính trong những tương tác ban đầu với
Nehru, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có trải nghiệm đầu tiên về thế giới khắc nghiệt của
chính trị thực dụng, nơi mà những cân nhắc về luân lý và đạo đức thường phải hướng
tới những mệnh lệnh thực dụng hơn như an ninh quốc gia. Trong
khi đánh giá rất cao chủ nghĩa nhân văn của Nehru và mối quan tâm thật sự của
ông đối với phúc lợi của người dân Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận ra rằng đối
với Nehru, mối quan hệ với Trung Hoa có ưu tiên cao hơn. Tuy
nhiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma không bao giờ quên rằng chính Nehru là người đã đưa
ra quyết định quan trọng và, theo một nghĩa nào đó, có tính chất cứu mạng là
cho phép ông được tị nạn ở Ấn Độ, hoàn toàn nhạy cảm với những hậu quả của nó,
và giúp tái định cư cho hơn 80.000 người tị nạn Tây Tạng đã vượt biên sang Ấn Độ.
Trong nhiều năm, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra nhiều đề nghị với giới lãnh đạo Tàu
Cộng với hy vọng đảm bảo lợi ích hợp pháp của đất nước mình trong phạm vi mà Ngài
cho là thực tế và có thể chấp nhận được đối với Tàu Cộng. Ví
dụ, trong bài phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1987, Ngài đã vạch
ra Kế hoạch Hòa bình Năm điểm mà Ngài tiếp tục tin rằng có thể là cơ sở cho một
giải pháp lâu dài cho vấn đề Tây Tạng. Nó kêu gọi biến Tây Tạng
thành một khu vực hòa bình và bất bạo động, từ bỏ việc di chuyển dân số đang
làm thay đổi đặc điểm nhân khẩu học của Tây Tạng, tôn trọng các quyền con người
và tự do dân chủ cơ bản của người dân Tây Tạng, bảo vệ môi trường của Tây Tạng,
chấm dứt việc sử dụng Tây Tạng cho tất cả các hoạt động hạt nhân và cuối cùng
là bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc về tình trạng tương lai của Tây Tạng và
các mối quan hệ giữa các dân tộc Hoa - Tạng. Tất cả những gợi
ý hợp lý, nhưng Tàu Cộng đã phản ứng bằng cách cáo buộc Đức Đạt Lai Lạt Ma âm
mưu chia cắt đất nước.
Sự không khoan nhượng của Tàu Cộng đã dẫn đến sự cắt đứt hoàn toàn các liên hệ
trong một thập niên, cho đến chuyến thăm vào tháng 9 năm 2002 của các phái viên
của Đức Đạt Lai Lạt Ma tới Bắc Kinh. Theo quan điểm của người
Tây Tạng, chuyến thăm nhằm giải thích cho giới lãnh đạo Tàu Cộng điều mà từ đó
được gọi là Phương Pháp Tiếp Cận Trung Đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, về bản chất
kêu gọi sự tự trị của Tây Tạng trong Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã vạch ra sự khác biệt giữa tự do và độc lập, với chủ nghĩa thực
dụng đặc trưng của mình, ngài nhận ra rằng độc lập hoàn toàn không còn khả thi
nữa. Theo
Phương pháp Trung đạo, Trung Quốc sẽ kiểm soát các chính sách đối ngoại và quốc
phòng của Tây Tạng trong khi chính quyền nội bộ, văn hóa, tôn giáo và kinh tế sẽ
được giao cho người Tây Tạng. Nói cách khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma
không còn kêu gọi sự độc lập và tách rời Tây Tạng khỏi Trung Hoa, nhưng Cách Tiếp
Cận Trung Đạo của Ngài mang lại quyền tự trị thật sự cho toàn bộ khu vực Tây Tạng
và sáu triệu người dân của nó, để họ có thể bảo tồn nền văn hóa đặc trưng, tôn
giáo và lối sống của mình.
Trong tuyên bố hàng năm vào ngày 10 tháng 3, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về sự cần
thiết của đối thoại như là 'cách hợp lý, thông minh và nhân văn duy nhất để giải
quyết những khác biệt' và 'để bỏ lại đằng sau hàng thập kỷ cay đắng, ngờ vực và
oán hận và hình thành một mối quan hệ mới dựa trên bình đẳng, hữu nghị và cùng
có lợi.' Như Ngài đã chỉ ra, ‘khi nhìn khắp thế giới, chúng
ta không thể không nhận thấy những xung đột không được giám sát về nguồn gốc sắc
tộc có thể bùng phát theo những cách khiến chúng trở nên cực kỳ khó giải quyết.’
Ngài
hy vọng rằng ban lãnh đạo mới của Tàu Cộng sẽ có cái nhìn nhân đạo và thích ứng
hơn đối với những nguyện vọng của Tây Tạng như được thể hiện trong Phương Pháp
Tiếp Cận Trung Đạo. Tàu Cộng, tuy nhiên, vẫn còn khó hiểu.
Có những người tin rằng Tàu Cộng chỉ đang câu giờ và sẵn sàng đợi cho đến khi Đức
Đạt Lai Lạt Ma hiện tại qua đời để sau đó họ có thể cài đặt một người kế vị do
họ lựa chọn, người sẽ thực hiện mệnh lệnh của họ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thành công phi thường trong việc khơi dậy lương tâm của
thế giới đối với hoàn cảnh khó khăn của người dân và đất nước của Ngài. Vấn
đề Tây Tạng nằm rất nhiều trong chương trình nghị sự của thế giới mặc dù các
chính phủ vẫn không ủng hộ hoàn toàn. Các tổ chức phi chính
phủ ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng đã mọc lên như nấm, chẳng hạn như Chiến dịch
Quốc tế cho Tây Tạng, nhằm tìm cách tác động đến các chính sách của các chính
phủ khác nhau để hỗ trợ 'nguyện vọng chính đáng của người dân Tây Tạng'.
Nỗ
lực bền bỉ, thầm lặng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, không có luận chiến hay khiêu
khích, đã giành được bạn bè và những người ủng hộ người Tây Tạng trên khắp thế
giới. Năng lượng không mệt mỏi đã đưa Ngài đến các quốc gia trên toàn cầu, kiên
nhẫn giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết và hỗ trợ cho mục tiêu của Ngài, không
có một chút dấu vết của sự thù hận hay đổ lỗi. Cách tiếp cận
hòa bình và bất bạo động của Ngài trong việc cố gắng giải quyết ngay cả vấn đề
nan giải nhất này đã giúp Ngài đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1989, giải thưởng
này cũng tượng trưng cho sự công nhận của quốc tế đối với tất cả các giá trị
tinh thần sâu sắc mà Ngài đại diện. Trích dẫn nói rằng, ‘Đức Đạt Lai Lạt Ma đã
phát triển triết lý hòa bình của mình từ sự tôn kính lớn lao đối với tất cả mọi
sinh vật sống và dựa trên khái niệm về trách nhiệm phổ quát, bao trùm tất cả
nhân loại cũng như thiên nhiên.’
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng những ý tưởng của Ngài về trách nhiệm toàn cầu
đã phát triển từ các truyền thống cổ xưa của Ấn Độ, và rằng với tư cách là một
tu sĩ Phật giáo, toàn bộ quá trình tu tập của Ngài đều bắt nguồn từ văn hóa Ấn
Độ. Đối
với Ngài, Ấn Độ về mọi mặt là quê hương tinh thần của Ngài. Như Ngài chỉ ra, Phật
giáo đã đến Tây Tạng từ Ấn Độ cùng với nhiều ảnh hưởng văn hóa quan trọng khác.
Ngài
thậm chí còn đi đến mức nói rằng theo ý kiến của Ngài, Ấn Độ có yêu cầu đối với
Tây Tạng tốt hơn so với Trung Quốc, 'nước có ảnh hưởng tốt nhất lại chỉ quá sơ sài’.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thích mối quan hệ giữa Ấn Độ và Tây Tạng giống như mối quan
hệ giữa thầy và trò.
Nền tảng triết lý chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma là niềm tin rằng tình yêu
thương, lòng từ bi và sự tha thứ có thể dẫn đến sự thay đổi hòa bình, và rằng một
cuộc cách mạng bất bạo động có vẻ không thực tế đối với một số người thật sự có
thể thực hiện được. Ngài biết rằng nhiều người Tây Tạng cảm thấy rằng đã đến
lúc phải dùng đến những phương cách quân sự hơn để đối phó với Tàu Cộng . Tuy
nhiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kiên định với niềm tin của mình vào bất bạo động (ahimsa),
và đã nói rằng nếu phong trào đòi tự do trở nên bạo lực, Ngài sẽ thoái vị.
Cuộc sống lưu vong ở Ấn Độ đã mang lại cho Đức Đạt Lai Lạt Ma cơ hội để xem xét
lại toàn bộ và hiện đại hóa các thực hành và thể chế cổ xưa khác nhau của Tây Tạng,
theo một cách vừa thực dụng vừa có tầm nhìn xa. Sự nghiêm nhặt về nghi thức
xung quanh con người của Ngài đã được giảm bớt và đơn giản hóa, khiến Ngài dễ
tiếp cận hơn với người dân của mình. Chế độ thần quyền lâu đời
đã được chuyển đổi thành một nền dân chủ đang hoạt động với điều đáng chú ý nhất
là Đức Đạt Lai Lạt Ma tự nguyện từ bỏ quyền lực tạm thời của mình cho các thể
chế hiện đang quyết định vận mệnh của người dân Tây Tạng, trong phạm vi mà hội
đồng dân cử, chiếm 2/3. đa số phiếu, có thể loại bỏ Đức Đạt Lai Lạt Ma khỏi chức
vụ. Điều
này thật sự mang tính cách mạng và chưa từng có vào thời điểm nó được ban hành
vào đầu những năm 1960. Kể từ đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố rằng khi Tây Tạng
cuối cùng giành lại được tự do, Ngài sẽ không có vai trò chính trị hay hành
chính nào trong chính phủ, vì nếu không có những trách nhiệm đó thì tốt hơn Ngài
nên phục vụ người dân của mình với tư cách là một chính khách cao tuổi, người
khi được kêu gọi sẽ cố vấn và hỗ trợ. Ngài có niềm tin vững
chắc rằng nếu Tây Tạng muốn tồn tại trong thế giới hiện đại thì nó phải phản
ánh ý chí tập thể của người dân thay vì chỉ của một cá nhân.
Ngày nay, Chính phủ lưu vong Tây Tạng hoạt động từ Dharamsala và có tất cả các
cơ quan cần thiết để điều hành công việc của mình. Cơ quan hành pháp đứng đầu
là một hội đồng bộ trưởng, được bầu ra và chịu trách nhiệm trước hội đồng. Một
cơ quan tư pháp độc lập tồn tại. Hiến pháp, được gọi là Hiến chương của người
Tây Tạng lưu vong, được thông qua năm 1991, tuân thủ chặc chẽ Tuyên ngôn Nhân
quyền Toàn cầu và cung cấp cho tất cả người dân Tây Tạng sự bình đẳng trước
pháp luật và được hưởng các quyền và tự do mà không bị phân biệt đối xử về giới
tính, tôn giáo chủng tộc, ngôn ngữ hoặc nguồn gốc xã hội.
Trong suốt nhiều năm sống lưu vong, mối quan tâm thường trực của Đức Đạt Lai Lạt
Ma là phúc lợi và sự phục hồi của những người tị nạn từ Tây Tạng. Ngoài khía cạnh
nhân đạo rõ ràng, Đức Đạt Lai Lạt Ma từ lâu đã tin rằng cách duy nhất để bảo tồn
văn hóa, tôn giáo và lối sống của Tây Tạng là xây dựng các cộng đồng mạnh mẽ và
sôi nổi ở nước ngoài. Với sự hỗ trợ và giúp đỡ của chính phủ Ấn Độ, những người
tị nạn đã được tái định cư tại một số trung tâm trên khắp đất nước, nơi họ có
thể tổ chức lại cuộc sống của mình cũng như bảo tồn và tiếp tục truyền thống của
họ. Ngày nay ở Ấn Độ, nền văn minh Tây Tạng vẫn còn sống động dù đã bị hủy diệt
phần lớn trên chính mảnh đất của mình. Các sáng kiến do Pandit
Nehru đưa ra và các chính phủ kế tiếp ở Delhi theo sau đã tạo ra vô số kế hoạch
phục hồi người tị nạn. Trong một biểu hiện điển hình của cách tiếp cận sang suốt
và tự do của mình, Nehru đã nói rằng để bảo tồn văn hóa Tây Tạng, cần phải có
các trường học riêng cho người tị nạn, và vì mục đích này, ông đã thành lập Hiệp
hội Giáo dục Tây Tạng độc lập trong Bộ Giáo dục của Ấn Độ. Nehru
cũng khuyên rằng mặc dù trẻ em Tây Tạng cần có kiến thức thấu đáo về lịch sử và
văn hóa của chính mình, nhưng điều quan trọng là chúng phải hoàn toàn quen thuộc
với cách thức của thế giới hiện đại, và để làm được điều này, điều cần thiết là
phải biết tiếng Anh và sử dụng nó như phương tiện giảng dạy vì nó là ngôn ngữ
quốc tế của tương lai.Lời khuyên này, được thực hiện tốt, đã giúp cộng đồng Tây
Tạng sống rải rác làm cho sự hiện diện của họ được cảm nhận trên trường quốc tế,
vượt xa so với quy mô nhỏ bé của họ.
Nông nghiệp, dệt thảm, sản xuất hàng may mặc, kinh doanh thực phẩm và nhà hàng
và lĩnh vực dịch vụ là trụ cột của cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ. Ngày nay, có hơn
80 trường học với gần 30.000 học sinh ở Ấn Độ và Nepal, 54 khu định cư và văn
phòng phúc lợi, hàng chục cơ quan truyền giáo ở nhiều quốc gia khác nhau ngoài
các viện văn hóa, thư viện, kho lưu trữ, nhà xuất bản và quỹ từ thiện. Các
cơ sở tôn giáo bao gồm hơn 200 tu viện và ni viện, với khoảng 20.000 môn nhân đại
diện cho tất cả các tông phái của Phật giáo Tây Tạng. Nghệ thuật và thủ công
phong phú và độc đáo của Tây Tạng, truyền thống y học và triết học của nó vẫn
còn sống động và phát triển mạnh mẽ.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Quỹ Trách nhiệm Toàn cầu, được
thành lập bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma từ số tiền mà Ngài nhận được từ giải thưởng
Nobel. Theo điều lệ của nó, nó tìm cách mang lại lợi ích cho mọi người ở mọi
nơi, bất kể quốc tịch, chủng tộc hay tín ngưỡng; để vun đắp nền tảng chung giữa
các đức tin khác nhau; để hỗ trợ các phương pháp bất bạo động; thúc đẩy sự giao
tiếp giữa khoa học và tôn giáo; bảo đảm quyền con người và các quyền tự do dân
chủ. Quỹ công nhận sự phụ thuộc lẫn nhau không chỉ của các quốc gia và cộng đồng
mà còn của tất cả các sinh vật sống, và trên thực tế đại diện cho tư tưởng đạo
đức và chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong hành động. Trong số các chương
trình mà Quỹ hiện đang hỗ trợ có chương trình Phụ nữ trong An ninh, Quản lý
Xung đột và Hòa bình (WISCOMP), đã thực hiện công việc dũng cảm giúp đỡ các nạn
nhân của bạo lực dân quân ở Kashmir, đã trao học bổng để nâng cao hiệu quả nghề
nghiệp của phụ nữ châu Á trong quan hệ quốc tế và các dự án tái tạo môi trường.
Các chương trình khác do Quỹ điều hành cho phép sinh viên dành thời gian ở các
tu viện Tây Tạng và các nhà lãnh đạo tôn giáo đến thăm những nơi thờ cúng tín
ngưỡng của nhau.
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Ấn Độ tin rằng mọi người trên khắp thế giới về cơ bản đều
giống nhau; họ tìm kiếm hạnh phúc và tránh đau khổ. Đau khổ là do vô minh, ích
kỷ và tham lam gây ra. Hạnh phúc thực sự đến từ cảm giác bình yên và mãn nguyện,
điều này đạt được thông qua lòng từ bi, sự đồng cảm và tình yêu thương, và bằng
cách loại bỏ sự sân hận, thù oán và tham lam. Những vấn đề mà thế giới phải đối
mặt ngày nay đều do con người tạo ra: xung đột bạo lực, nghèo khó, nạn đói, hủy
hoại môi trường và nhiều vấn đề khác. Tất cả chúng đều có thể được giải quyết bằng
nỗ lực, sự hiểu biết của con người và sự phát triển của tình huynh đệ đại đồng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần lên tiếng chống lại sự bất khoan dung tôn giáo,
điều chắc chắn sẽ gieo rắc sự ngờ vực và chia rẽ cộng đồng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của chính những phẩm chất mà Ngài thuyết giảng:
tình yêu thương, lòng từ bi và lòng nhân đức, sự tha thứ và lòng từ thiện, và
trách nhiệm toàn cầu. Những lời dạy của Ngài rất đơn giản và
sáng suốt, không có biệt ngữ và những mớ siêu hình phức tạp, đồng thời được
truyền tải một cách thẳng thắn, quyến rũ và một khiếu hài hước không ngừng. Niềm
vui sống và cách truyền đạt dễ dàng của Ngài ngay lập tức thiết lập mối quan hệ
cá nhân thân thiết với tất cả những người đến nghe Ngài nói hoặc những người
may mắn được gặp Ngài. Ngài hoàn toàn không khoa trương và là một
người khiêm tốn thật sự. Tôi nhớ lại một dịp khi Đức Đạt Lai Lạt Ma kêu gọi Tổng
thống Venkataraman xin lời khuyên của ông vào đêm trước chuyến công du nước
ngoài về cách Ngài nên phản ứng với các vấn đề khác nhau có thể được nêu ra.
“Tôi
là ai, chỉ là một người phàm,” Tổng thống trả lời, “để tư vấn cho một vị thần
hiện thân trên trái đất!’ Phản ứng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, sau một khoảnh khắc
hoàn toàn ngạc nhiên, là phá lên một tràng cười lớn, có sức lan tỏa.
Khi được hỏi rằng Ngài muốn được hậu thế nhớ đến như thế nào, Đức Đạt Lai Lạt
Ma trả lời: “Chỉ với tư cách là một con người; có lẽ là một con người hay mỉm
cười.’ Nhận xét đó đã tóm gọn bản chất nhân cách của Đức Đạt Lai Lạt Ma: trí tuệ
sâu sắc, tình thương và lòng từ bi sâu sắc, sự khiêm tốn sâu sắc./.
Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển Understanding
the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét