Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

CHƯƠNG 3 CÁI SAU TRỞ THÀNH CÁI TRƯỚC CHO CÁI TRONG TIẾP THEO



Từ quyển: The Science of Meditation
Nguyên tác: 3 The After Is the Before for the Next During
Tác giả: Daniel Goleman và Richard J. Davidson
Chuyển ngữ: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận sắc 
****

Lần lưu trú thứ hai của Dan tại châu Á là vào năm 1973, lần này là bằng học bổng sau tiến sĩ của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội, danh nghĩa là một dự án về "tâm lý học dân tộc" (ethnopsychology), nhằm nghiên cứu các hệ thống châu Á dùng để phân tích tâm trí và những khả năng của nó. Chuyến đi bắt đầu bằng sáu tháng ở Kandy, một thị trấn trên đồi ở Sri Lanka, nơi Dan cứ vài ngày lại tham vấn với Nyanaponika Thera, một vị sư Theravada gốc Đức, người có học thuật tập trung vào lý thuyết và thực hành thiền. (Sau đó Dan tiếp tục ở Dharamsala, Ấn Độ vài tháng, nơi anh nghiên cứu tại Thư viện các Công trình và Văn thư Tây Tạng.)

Các bài viết của Nyanaponika tập trung vào A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma), một mô hình tâm trí đã vẽ ra một bản đồ và các phương pháp để chuyển hóa ý thức theo hướng thay đổi đặc tính (altered traits). Trong khi Thanh Tịnh Đạo(Visuddhimagga) và các sổ tay thiền mà Dan đã đọc là hướng dẫn vận hành cho tâm trí, thì A-tỳ-đạt-ma là một lý thuyết dẫn đường cho các sổ tay đó. Hệ thống tâm lý này đi kèm với một lời giải thích chi tiết về các yếu tố then chốt của tâm trí và cách thức di chuyển qua phong cảnh nội tâm này để tạo ra những thay đổi lâu dài trong cốt lõi bản chất của chúng ta.

Một số phần đặc biệt thuyết phục vì tính liên quan đến tâm lý học, đặc biệt là động lực học được phác thảo giữa các trạng thái tâm trí “khỏe mạnh” và “không khỏe mạnh” (healthy và unhealthy). Quá thường xuyên, các trạng thái tinh thần của chúng ta dao động trong một phạm vi làm nổi bật những ham muốn, sự tự cho mình là trung tâm, sự trì trệ, sự kích động, và những điều tương tự. Đây là những trạng thái không khỏe mạnh nằm trên bản đồ tâm trí này.

Ngược lại, các trạng thái khỏe mạnh bao gồm sự điềm tĩnh/bình thản (even-mindedness), sự điềm đạm (composure), chánh niệm liên tục (ongoing mindfulness), và sự tự tin thực tế (realistic confidence). Điều thú vị là, một tập hợp con của các trạng thái khỏe mạnh còn áp dụng cho cả tâm trí và cơ thể: sự linh hoạt (buoyancy), sự mềm dẻo (flexibility), khả năng thích ứng (adaptability), và tính dễ uốn nắn (pliancy).

 Các trạng thái khỏe mạnh sẽ ức chế (inhibit) các trạng thái không khỏe mạnh, và ngược lại. Dấu hiệu của sự tiến bộ trên con đường này là liệu các phản ứng của chúng ta trong đời sống hàng ngày có báo hiệu một sự chuyển dịch sang các trạng thái khỏe mạnh hay không. Mục tiêu là thiết lập các trạng thái khỏe mạnh trở thành những đặc tính (trait) chiếm ưu thế và lâu dài.

Khi nhập định trong trạng thái tập trung sâu sắc, những trạng thái bất ổn của người hành thiền bị kìm nén—nhưng, giống như vị hành giả du già ở chợ kia, khi trạng thái tập trung lắng xuống, họ có thể trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ngược lại, theo tâm lý học Phật giáo cổ xưa này, việc đạt được những cấp độ thực hành tuệ giác sâu sắc sẽ dẫn đến một sự chuyển hóa triệt để, cuối cùng giải thoát tâm trí người thiền định khỏi hỗn hợp bất ổn. Một hành giả cao cấp dễ dàng ổn định ở trạng thái lành mạnh, thể hiện sự tự tin, sự phấn chấn, v.v.

 Dan đã xem hệ thống tâm lý học châu Á này (ám chỉ Abhidhamma) như một mô hình hoạt động của tâm trí, đã được thời gian kiểm chứng qua nhiều thế kỷ, một lý thuyết về cách mà việc rèn luyện tinh thần có thể dẫn đến những đặc tính thay đổi cực kỳ tích cực (highly positive altered traits). Lý thuyết đó đã dẫn dắt việc thực hành thiền trong hơn hai thiên niên kỷ—đó là một minh chứng khái niệm (proof of concept) đầy kích thích.

 Vào mùa hè năm 1973, Richie và Susan đã đến Kandy để thăm viếng sáu tuần trước khi lên đường đến Ấn Độ để tham gia khóa nhập thất đầy hứng thú và tỉnh táo cùng với Goenka. Khi đã ở Kandy, Richie và Dan đã đi xuyên rừng để tham vấn với Nyanaponika tại tu viện hẻo lánh của ông về mô hình kiết tường tinh thần này.2

 Cuối năm đó, sau khi Dan trở về từ chuyến công tác lần thứ hai tại châu Á với tư cách là Nghiên cứu viên Khoa học Xã hội, ông được mời làm giảng viên thỉnh giảng tại Harvard. Vào học kỳ mùa thu năm 1974, ông đã mở một khóa học, Tâm lý học về Ý thức (The Psychology of Consciousness), khóa học này rất phù hợp với tinh thần thời đại lúc bấy giờ—ít nhất là trong số các sinh viên, nhiều người trong số họ đang tự thực hiện các nghiên cứu ngoại khóa của riêng mình với chất gây ảo giác (psychedelics), yoga, và thậm chí là một chút thiền định.

 Ngay sau khi khóa học Tâm lý học về Ý thức được công bố, hàng trăm sinh viên đại học Harvard đã đổ xô đến với chương trình khảo sát về thiền tập và các trạng thái ý thức bị thay đổi của nó, hệ thống tâm lý học Phật giáo, và những hiểu biết ít ỏi vào thời điểm đó về động lực học của sự chú ý—tất cả đều nằm trong số các chủ đề được đề cập. Số lượng đăng ký quá lớn đến mức lớp học phải được chuyển đến địa điểm lớn nhất tại Harvard, Nhà hát Sanders với sức chứa 1.000 chỗ ngồi.3 Richie, lúc đó đang học năm thứ ba sau đại học, là trợ giảng trong khóa học này.4

Hầu hết các chủ đề trong khóa học Tâm lý học về Ý thức—và bản thân tiêu đề khóa học—đều nằm ngoài bản đồ quy ước của tâm lý học vào thời điểm đó. Không ngạc nhiên, Dan đã không được khoa yêu cầu ở lại sau khi học kỳ đó kết thúc. Nhưng đến lúc đó, chúng tôi đã cùng nhau thực hiện một số công việc viết lách và nghiên cứu, và Richie đã cảm thấy hào hứng khi nhận ra rằng đây chính là con đường nghiên cứu của riêng mình và ông ấy nóng lòng muốn bắt đầu.

 Bắt đầu từ khi chúng tôi ở Sri Lanka và tiếp tục trong suốt học kỳ Dan giảng dạy khóa học về tâm lý học ý thức, chúng tôi đã thực hiện bản nháp đầu tiên của bài báo, nhằm trình bày với các đồng nghiệp trong ngành tâm lý học về khái niệm các đặc điểm thay đổi (altered traits). Trong khi bài báo đầu tiên của Dan, vì cần thiết, phải dựa trên các tuyên bố mỏng manh, nghiên cứu ít ỏi và phần lớn là phỏng đoán, thì giờ đây, chúng tôi đã có một khuôn mẫu cho con đường dẫn đến các đặc điểm thay đổi, một thuật toán cho sự chuyển hóa bên trong. Chúng tôi đã vật lộn với việc làm thế nào để kết nối bản đồ này với dữ liệu thưa thớt mà khoa học đã thu được cho đến lúc đó.

Trở lại Cambridge, chúng tôi suy ngẫm tất cả những điều này qua những cuộc trò chuyện dài, thường là ở Harvard Square. Khi đó, vì là người ăn chay, chúng tôi thường chọn món kem Sundae caramel tại tiệm kem Bailey's trên phố Brattle.
Tại đó, chúng tôi đã làm việc để hoàn thành bài báo khoa học sẽ được công bố sau này, cố gắng lắp ghép những dữ liệu liên quan ít ỏi tìm được để củng cố cho tuyên bố đầu tiên của chúng tôi về các đặc điểm thay đổi cực kỳ tích cực (extremely positive altered traits).

Chúng tôi đặt tên cho bài báo là 'Vai trò của sự chú ý trong Thiền định và Thôi miên: Góc nhìn Tâm-Sinh học về Sự Biến đổi của Ý thức'. Cụm từ then chốt ở đây là 'sự biến đổi của ý thức', thuật ngữ mà chúng tôi sử dụng khi đó để chỉ các đặc điểm thay đổi, điều mà chúng tôi nhìn nhận là một sự chuyển đổi 'tâm-sinh học' (psychobiological) (ngày nay chúng ta sẽ gọi là 'thần kinh' hay neural). Chúng tôi lập luận rằng thôi miên, không giống như thiền định, chủ yếu tạo ra các hiệu ứng trạng thái, chứ không phải là các hiệu ứng đặc điểm (trait effects) như trong thiền định."

Chúng tôi đang đề cập đến một sự nhầm lẫn cơ bản, mà vẫn còn quá phổ biến, về cách thiền định có thể thay đổi chúng ta. Một số người chỉ tập trung vào những trạng thái đáng chú ý đạt được trong một buổi thiền—đặc biệt là trong các khóa nhập thất dài ngày—và ít chú ý đến việc những trạng thái đó có chuyển hóa thành một sự thay đổi lâu dài tốt đẹp hơn trong phẩm chất sống của họ sau khi họ trở về nhà hay không, hoặc bằng cách nào. Việc chỉ đánh giá cao những đỉnh cao [cảm xúc/trạng thái] đã bỏ lỡ ý nghĩa thật sự của việc thực hành: đó là chuyển hóa bản thân theo những cách lâu dài trong cuộc sống hàng ngày.

 Gần đây hơn, điểm này đã được củng cố rõ ràng với chúng tôi khi chúng tôi có cơ hội kể với Đức Đạt Lai Lạt Ma về các trạng thái thiền tập và các mẫu hình não bộ tương ứng mà một học viên lâu năm đã thể hiện trong phòng thí nghiệm của Richie. Khi chuyên gia này tham gia vào các loại thiền tập cụ thể—chẳng hạn như tập trung (thiền định) hoặc quán tưởng (thiền quán)—dữ liệu chụp ảnh não đã tiết lộ một hồ sơ thần kinh (neural profile) khác biệt cho mỗi trạng thái thay đổi do thiền tập gây ra.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét: 'Điều đó rất tốt, ông ấy đã thể hiện được một số dấu hiệu của khả năng yoga' – qua đó, ngài muốn nói đến việc thực hành thiền tập chuyên sâu trong nhiều tháng hoặc nhiều năm của các Yogi trong các hang động ở Himalaya, chứ không phải loại yoga thông thường, phổ biến để giữ dáng ngày nay.5

 Nhưng sau đó ngài nói thêm, 'Dấu hiệu đích thực của một thiền giả là ông ta đã kỷ luật tâm trí mình bằng cách giải thoát nó khỏi những cảm xúc tiêu cực.'

Quy tắc kinh nghiệm đó đã không thay đổi kể từ trước thời kỳ của bộ kinh Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga): Điều quan trọng không phải là những thăng hoa (trạng thái cao độ) trên đường đi. Mà là bạn đã trở thành người như thế nào.

Trăn trở về cách dung hòa bản đồ thiền tập với những gì chúng tôi đã tự mình trải nghiệm, và sau đó là với bằng chứng khoa học còn ít ỏi, chúng tôi đã đưa ra một giả thuyết: Cái sau trở thành cái trước cho cái trong tiếp theo(The after is the before for the next during)."

Để làm rõ ý tưởng này,
Cái sau (after) dùng để chỉ những thay đổi lâu dài từ việc hành thiền, kéo dài rất lâu sau khi buổi tập kết thúc.
Cái trước (before) có nghĩa là trạng thái mà chúng ta đang ở, là mức cơ sở trước khi chúng ta bắt đầu hành thiền.
Cái trong (during) là những gì xảy ra khi chúng ta hành thiền, những thay đổi tạm thời trong trạng thái của chúng ta và sẽ qua đi khi chúng ta ngừng hành thiền.
Nói cách khác, việc thực hành thiền lặp đi lặp lại sẽ tạo ra các đặc điểm lâu dài (lasting traits) — chính là cái sau.

Chúng tôi bị cuốn hút bởi khả năng tồn tại một lộ trình sinh học nào đó, nơi việc thực hành lặp đi lặp lại sẽ dẫn đến sự thể hiện ổn định các đặc điểm cực kỳ tích cực như lòng tốt, sự kiên nhẫn, sự hiện diện (tỉnh thức), và sự thư thái trong mọi hoàn cảnh. Chúng tôi lập luận rằng thiền tập chính là một công cụ để thúc đẩy những phẩm chất tốt đẹp và bền vững ấy.

Chúng tôi đã xuất bản bài báo của mình trên một trong số có lẽ chỉ hai hoặc ba ấn phẩm học thuật quan tâm đến các chủ đề 'xa lạ' như thiền tập vào những năm 1970.6 Đây là tia sáng đầu tiên trong tư duy của chúng tôi về các đặc điểm thay đổi (altered traits), mặc dù cơ sở khoa học còn mỏng manh. Châm ngôn 'khả năng không phải là bằng chứng' (probability is not proof) đã đúng trong trường hợp này: những gì chúng tôi có chỉ là một khả năng (possibility), nhưng gần như không có gì để dựa vào để xác định xác suất(probability), và bằng chứng thì bằng không (zero proof).
 
Khi chúng tôi lần đầu viết về điều này, chưa có một nghiên cứu khoa học nào được thực hiện để cung cấp loại bằng chứng mà chúng tôi cần. Mãi đến nhiều thập niên sau khi chúng tôi xuất bản bài báo, Richie mới phát hiện ra rằng đối với những người thiền tập cực kỳ thuần thục, trạng thái 'cái trước' (before) của họ thật sự rất khác biệt so với những người chưa bao giờ hành thiền hoặc thiền rất ít—đó chính là một chỉ dấu của đặc điểm thay đổi (altered trait) (như chúng ta sẽ thấy trong chương mười hai, 'Kho báu tiềm ẩn').

 Vào thời điểm đó, không một ai trong ngành tâm lý học nói về các đặc điểm thay đổi (altered traits). Hơn nữa, nguồn tài liệu thô của chúng tôi lại rất khác thường đối với các nhà tâm lý học: đó là các cẩm nang thiền tập cổ xưa, vốn khó tìm thấy bên ngoài châu Á, cùng với kinh nghiệm của chính chúng tôi trong các khóa nhập thất thiền tập chuyên sâu, và những cuộc gặp gỡ tình cờ với các thiền giả cực kỳ thuần thục. Nói một cách nhẹ nhàng, chúng tôi là những người đi ngược lại xu thế (outliers) trong ngành tâm lý học—hay là những người lập dị (oddballs), điều mà chắc chắn một số đồng nghiệp ở Harvard đã nhìn nhận về chúng tôi.

Tầm nhìn của chúng tôi về các đặc điểm thay đổi đã tạo nên một bước nhảy vọt vượt xa khoa học tâm lý học đương thời. Đó là một công việc đầy rủi ro.

KHOA HỌC BẮT KỊP

Khi một nhà nghiên cứu giàu trí tưởng tượng tạo ra một ý tưởng mới lạ, nó sẽ khởi động một chuỗi các sự kiện giống như sự biến đổi tự nhiên trong quá trình tiến hóa: khi các thử nghiệm thực nghiệm vững chắc cân nhắc những ý tưởng mới, chúng sẽ loại bỏ các giả thuyết tồi và lan truyền các giả thuyết tốt.7

 Để điều này xảy ra, khoa học cần phải cân bằng giữa những người hoài nghi (skeptics) và những người suy đoán (speculators)—những người giăng lưới rộng, tư duy giàu trí tưởng tượng, và cân nhắc câu hỏi 'Điều gì sẽ xảy ra nếu...'.
Mạng lưới tri thức phát triển bằng cách kiểm tra các ý tưởng độc đáo do những người suy đoán như chúng tôi mang lại. Nếu chỉ có những người hoài nghi theo đuổi khoa học, sẽ có rất ít sự đổi mới xảy ra.

Ngày nay, nhà kinh tế học Joseph Schumpeter đã trở nên nổi tiếng với khái niệm 'phá hủy sáng tạo' (creative destruction), nơi cái mới phá vỡ cái cũ trong thị trường. Những linh cảm ban đầu của chúng tôi về các đặc điểm thay đổi (altered traits) phù hợp với điều mà Schumpeter gọi là 'tầm nhìn' (vision): một hành động trực giác cung cấp phương hướng và năng lượng cho những nỗ lực phân tích.
Schumpeter nói rằng một tầm nhìn cho phép bạn nhìn mọi thứ dưới một ánh sáng mới, một ánh sáng 'không thể được tìm thấy trong các sự kiện, phương pháp và kết quả của tình trạng khoa học đã tồn tại trước đó'.8
 
Chắc chắn rồi, chúng tôi đã có một tầm nhìn theo ý nghĩa này—nhưng chúng tôi có rất ít phương pháp hoặc dữ liệu để khám phá phạm vi tích cực này của các đặc điểm thay đổi (altered traits), và hoàn toàn không có ý niệm về cơ chế não bộ nào có thể tạo ra một sự chuyển đổi sâu sắc như vậy.
Chúng tôi quyết tâm đưa ra lập luận của mình, nhưng đã đi trước quá nhiều năm so với mảnh ghép khoa học then chốt trong câu đố này.

Dữ liệu luận án của chúng tôi chỉ hỗ trợ một cách yếu ớt—thật sự rất yếu ớt—cho ý tưởng rằng bạn càng luyện tập cách tạo ra một trạng thái thiền tập, thì việc luyện tập đó càng cho thấy những ảnh hưởng lâu dài vượt ra ngoài buổi tập.

Tuy nhiên, khi khoa học não bộ đã phát triển qua nhiều thập niên, chúng tôi nhận thấy ngày càng có nhiều cơ sở lý luận hợp lý cho các ý tưởng của mình.

 Richie đã tham dự cuộc họp đầu tiên của Hiệp hội Khoa học Thần kinh (Society for Neuroscience) vào năm 1975 tại Thành phố New York, cùng với khoảng 2.500 nhà khoa học khác, tất cả đều phấn khởi vì họ đang chứng kiến sự ra đời của một lĩnh vực mới (và không ai mơ rằng ngày nay các cuộc họp đó sẽ thu hút hơn 30.000 nhà thần kinh học).9 Vào giữa những năm 1980, một trong những chủ tịch đầu tiên của hiệp hội, Bruce McEwen thuộc Đại học Rockefeller, đã cung cấp cho chúng tôi vũ khí khoa học.

McEwen đã đặt một con chuột chù cây (tree shrew) thống trị vào chung một cái lồng trong hai mươi tám ngày với một con có địa vị thấp hơn trong hệ thống cấp bậc—giống như bị mắc kẹt ở nơi làm việc với một ông chủ tồi tệ 24/7 trong suốt một tháng. Phát hiện gây sốc lớn từ nghiên cứu của McEwen là trong não của con vật bị thống trị, các sợi nhánh (dendrites) đã co lại trong hồi hải mã (hippocampus)—một vùng cực kỳ quan trọng đối với trí nhớ. Các sợi nhánh là những phần kéo dài phân nhánh của các tế bào cơ thể, cho phép chúng tiếp cận và tác động lên các tế bào khác; việc các sợi nhánh bị co lại đồng nghĩa với trí nhớ bị suy giảm.

Kết quả nghiên cứu của McEwen đã càn quét qua các ngành khoa học về não bộ và hành vi như một cơn sóng thần nhỏ, mở ra suy nghĩ về khả năng một trải nghiệm nhất định có thể để lại dấu ấn (imprint) trên não bộ. McEwen đang nhắm đến một chiếc chén thánh của tâm lý học: cách các sự kiện căng thẳng tạo ra những vết sẹo thần kinh (neural scars) dai dẳng. Cho đến lúc đó, việc một trải nghiệm, dù là loại nào, cũng có thể để lại dấu ấn trên não bộ là điều không thể tưởng tượng được.

 Chắc chắn rằng, căng thẳng là chuyện thường tình đối với một con chuột thí nghiệm—McEwen chỉ tăng cường độ lên mà thôi. Cấu trúc tiêu chuẩn của khu vực sống dành cho chuột thí nghiệm tương đương với việc bị biệt giam: hết tuần này đến tháng nọ trong một chiếc lồng dây nhỏ, và nếu may mắn thì có một cái bánh xe để tập thể dục.

 Hãy đối chiếu cuộc sống luôn trong tình trạng buồn chán và cô lập xã hội đó [của chuột thí nghiệm tiêu chuẩn] với một nơi giống như khu nghỉ dưỡng sức khỏe dành cho loài gặm nhấm, với nhiều đồ chơi, nhiều thứ để leo trèo, những bức tường đầy màu sắc, bạn chơi, và các không gian thú vị để khám phá. Đó chính là môi trường sống đầy kích thích mà Marion Diamond tại Đại học California ở Berkeley đã xây dựng cho những con chuột thí nghiệm của bà. Cũng làm việc vào khoảng thời gian với McEwen, Diamond đã phát hiện ra rằng não của những con chuột này được hưởng lợi, với các sợi nhánh (dendrites) nối các tế bào thần kinh trở nên dày hơn và sự phát triển ở các vùng não, chẳng hạn như vỏ não trước trán (prefrontal cortex), vốn rất quan trọng trong sự chú ý và tự điều chỉnh.10

Trong khi công trình của McEwen cho thấy các sự kiện bất lợi có thể làm co rút các phần của não bộ, nghiên cứu của Diamond lại nhấn mạnh mặt tích cực.
Tuy nhiên, công trình của bà phần lớn chỉ nhận được sự thờ ơ trong ngành khoa học thần kinh, có lẽ vì nó đặt ra một thách thức trực tiếp đối với những niềm tin phổ biến trong lĩnh vực này. Quan niệm truyền thống vào thời đó là khi sinh ra, chúng ta có một số lượng tế bào thần kinh (neurons) tối đa trong hộp sọ, và sau đó chúng sẽ chết dần đi một cách không thể tránh khỏi trong suốt cuộc đời. Kinh nghiệm sống, theo giả thuyết này, không liên quan gì đến quá trình đó.

 Nhưng McEwen và Diamond đã khiến chúng tôi tự hỏi, nếu những thay đổi não bộ theo chiều hướng xấu và tốt này có thể xảy ra với loài chuột, liệu trải nghiệm phù hợp có thể thay đổi não bộ con người theo hướng tạo ra các đặc điểm thay đổi có lợi (beneficial altered traits) không? Liệu thiền tập có thể là một bài tập rèn luyện nội tâm hữu ích như vậy không? Thoáng nhìn thấy khả năng này đã khiến chúng tôi vô cùng hào hứng. Chúng tôi cảm nhận được một điều gì đó thật sự mang tính cách mạng đang sắp xảy ra, nhưng phải mất thêm vài thập niên nữa bằng chứng mới bắt đầu theo kịp linh cảm của chúng tôi.

BƯỚC NHẢY VỌT LỚN

"Năm đó là năm 1992, và Richie cảm thấy lo lắng khi khoa xã hội học tại Đại học Wisconsin mời ông thuyết trình tại một hội thảo chuyên đề lớn của khoa. Ông biết mình đang bước vào tâm điểm của một cơn lốc xoáy trí tuệ, một cuộc chiến kéo dài nhiều năm trong khoa học xã hội về vấn đề 'bản chất' (nature) và 'nuôi dưỡng' (nurture). Phe 'nuôi dưỡng' tin rằng hành vi của chúng ta được định hình bởi kinh nghiệm sống; còn phe 'bản chất' thì cho rằng gen mới là yếu tố quyết định hành vi của chúng ta."

 Cuộc chiến này có một lịch sử lâu dài và tồi tệ—những người phân biệt chủng tộc vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã xuyên tạc di truyền học thời đó thành cơ sở 'khoa học' để thành kiến chống lại người da đen, người Mỹ bản địa, người Do Thái, người Ireland, và một danh sách dài các mục tiêu khác của sự cố chấp. Những người phân biệt chủng tộc đổ lỗi cho bất kỳ và tất cả những sự tụt hậu về giáo dục và kinh tế của nhóm mục tiêu là do số phận di truyền của họ, đồng thời phớt lờ sự chênh lệch lớn về cơ hội. Phản ứng dữ dội sau đó trong khoa học xã hội đã khiến nhiều người trong khoa xã hội học đó (tại Đại học Wisconsin) trở nên hoài nghi sâu sắc về bất kỳ lời giải thích sinh học nào.

Nhưng Richie cảm thấy rằng các nhà xã hội học đã mắc phải một lỗi ngụy biện khoa học khi ngay lập tức cho rằng các nguyên nhân sinh học nhất thiết phải quy các khác biệt nhóm về gen—và do đó bị coi là không thể thay đổi được. Theo quan điểm của Richie, những nhà xã hội học này đã bị cuốn theo một lập trường hệ tư tưởng (ideological stance).

Lần đầu tiên trước công chúng, ông đã đề xuất khái niệm 'tính dẻo dai thần kinh' (neuroplasticity) như một cách để giải quyết cuộc chiến giữa bản chất (nature) và nuôi dưỡng (nurture) này. Richie giải thích rằng tính dẻo dai thần kinh cho thấy trải nghiệm lặp đi lặp lại có thể thay đổi và định hình não bộ. Chúng ta không cần phải chọn giữa bản chất hay nuôi dưỡng. Chúng tương tác với nhau, mỗi yếu tố đều nhào nặn yếu tố kia.

 Khái niệm này đã khéo léo dung hòa những quan điểm từng đối nghịch nhau. Nhưng Richie đang vươn xa hơn khoa học thời bấy giờ; dữ liệu về tính dẻo dai thần kinh ở người vẫn còn mơ hồ.

Điều đó đã thay đổi chỉ vài năm sau đó với hàng loạt phát hiện khoa học—chẳng hạn, những nghiên cứu cho thấy việc làm chủ một loại nhạc cụ có thể làm tăng kích thước các trung tâm não bộ liên quan.11 Những người chơi violin, người mà ngón tay trái liên tục bấm dây đàn khi chơi, có vùng não quản lý hoạt động ngón tay đó trở nên to hơn. Họ chơi càng lâu, kích thước vùng não đó càng lớn.12
 
BẢN THỬ NGHIỆM CỦA TỰ NHIÊN

Hãy thử điều này. Nhìn thẳng về phía trước và giơ một ngón tay lên, cánh tay duỗi thẳng. Vẫn nhìn thẳng về phía trước, từ từ dịch chuyển ngón tay đó cho đến khi nó cách mũi bạn khoảng hai bộ (khoảng 60 cm) về bên phải. Khi bạn di chuyển ngón tay ra xa về bên phải nhưng vẫn tập trung nhìn thẳng, ngón tay sẽ nằm trong tầm nhìn ngoại vi (peripheral vision) của bạn, tức là rìa ngoài của những gì hệ thống thị giác của bạn thu nhận.13

Hầu hết mọi người đều mất tầm nhìn ngón tay khi nó di chuyển ra xa về bên phải hoặc bên trái mũi họ. Nhưng có một nhóm người thì không: đó là những người bị điếc (deaf).

Mặc dù lợi thế thị giác bất thường này ở người điếc đã được biết đến từ lâu, nhưng cơ sở não bộ của nó chỉ mới được chứng minh gần đây. Và cơ chế đó, một lần nữa, chính là tính dẻo dai thần kinh (neuroplasticity).

 Các nghiên cứu về não bộ như thế này tận dụng cái gọi là 'các thí nghiệm của tự nhiên' (experiments of nature)—các tình huống xảy ra một cách tự nhiên như bệnh điếc bẩm sinh. Helen Neville, một nhà thần kinh học tại Đại học Oregon có niềm đam mê sâu sắc với tính dẻo dai của não bộ (brain plasticity), đã nắm bắt cơ hội sử dụng máy quét não MRI để kiểm tra cả những người điếc và người nghe bình thường bằng một mô phỏng thị giác bắt chước những gì một người điếc nhìn thấy khi đọc ngôn ngữ ký hiệu.

 Ngôn ngữ ký hiệu là những cử chỉ mở rộng. Khi một người điếc đọc ký hiệu của người khác, họ thường nhìn vào khuôn mặt của người đang ký hiệu—chứ không nhìn trực tiếp vào cách bàn tay di chuyển. Một số cử chỉ mở rộng đó di chuyển ở vùng ngoại vi của trường thị giác, và do đó tự nhiên rèn luyện khả năng nhận thức của não bộ trong rìa ngoài của tầm nhìn này. Tính dẻo dai thần kinh (plasticity) cho phép các mạch thần kinh này đảm nhận một nhiệm vụ thị giác khi người điếc học ngôn ngữ ký hiệu: đó là đọc được những gì đang diễn ra ở ngay rìa tầm nhìn.

Phần lãnh thổ thần kinh (neural real estate) thường hoạt động như vỏ não thính giác sơ cấp (được gọi là Hồi Heschl - Heschl’s gyrus) không nhận được bất kỳ đầu vào cảm giác nào ở những người bị điếc. Neville phát hiện ra rằng não bộ của những người điếc đã biến đổi, đến mức phần vốn dĩ thuộc hệ thống thính giác giờ đây đang hoạt động cùng với mạch thị giác.14

 Những phát hiện như vậy minh họa cho việc não bộ có thể tự tái cấu trúc (rewire itself) một cách triệt để như thế nào để đáp ứng với các trải nghiệm lặp đi lặp lại.15 Các phát hiện ở nhạc sĩ và người điếc—cùng với hàng loạt nghiên cứu khác—đã mang lại bằng chứng mà chúng tôi hằng mong đợi. Tính dẻo dai thần kinh (Neuroplasticity) cung cấp một khuôn khổ dựa trên bằng chứng và một ngôn ngữ có ý nghĩa trong bối cảnh tư duy khoa học hiện đại.16 Đó chính là nền tảng khoa học mà chúng tôi đã cần từ lâu, một cách tư duy về việc rèn luyện tâm trí có chủ đích, như thiền định, có thể định hình não bộ như thế nào.

 Các đặc điểm thay đổi (Altered traits) được lập bản đồ dọc theo một quang phổ (spectrum) bắt đầu từ đầu tiêu cực, với rối loạn căng thẳng sau sang chấn thương (PTSD) là một trường hợp điển hình. Hạch hạnh nhân (amygdala) hoạt động như một rada thần kinh để dò tìm mối đe dọa. Sang chấn thương quá lớn đã đặt lại ngưỡng kích hoạt của hạch hạnh nhân ở mức cực kỳ nhạy bén, khiến nó chiếm quyền kiểm soát phần còn lại của não bộ để phản ứng với những gì nó nhận thức là một tình trạng khẩn cấp.17 Ở những người mắc PTSD, bất kỳ tín hiệu nào gợi nhớ đến trải nghiệm đau thương—mà đối với người khác thì không đáng chú ý—đều kích hoạt một loạt các phản ứng thần kinh quá mức tạo ra các triệu chứng hồi tưởng, mất ngủ, dễ cáu kỉnh và lo âu cảnh giác thái quá của chứng rối loạn đó.

Dịch chuyển dọc theo quang phổ đặc điểm (trait spectrum) về phía phạm vi tích cực, chúng ta có những tác động thần kinh có lợi từ việc là một đứa trẻ có cảm giác an toàn (secure child), người có bộ não được nhào nặn bởi sự nuôi dưỡng, quan tâm và đồng cảm từ cha mẹ. Quá trình định hình não bộ thời thơ ấu này xây dựng nền tảng cho tuổi trưởng thành, ví dụ, giúp người đó có khả năng tự trấn tĩnh tốt khi gặp khó khăn (able to calm down well when upset).18

 Sự quan tâm của chúng tôi đối với các đặc điểm thay đổi (altered traits) không chỉ dừng lại ở quang phổ tâm lý đơn thuần khỏe mạnh (healthy spectrum) mà còn hướng đến một phạm vi có lợi hơn nữa, đó là những phẩm chất tốt đẹp của bản thể (wholesome traits of being). Những đặc điểm thay đổi cực kỳ tích cực này, chẳng hạn như sự buông xả/bình thản (equanimity) và lòng từ bi(compassion), là mục tiêu của việc rèn luyện tâm trí trong các truyền thống quán chiếu. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ 'đặc điểm thay đổi' (altered trait) như một cách gọi tắt cho phạm vi tích cực cao này.19

Tính dẻo dai thần kinh (Neuroplasticity) cung cấp một cơ sở khoa học cho thấy việc rèn luyện lặp đi lặp lại có thể tạo ra những phẩm chất sống bền vững (lasting qualities of being) mà chúng tôi đã bắt gặp ở một số ít các hành giả Yogi, Swami, Tăng nhân và Lạt ma đặc biệt. Các đặc điểm thay đổi (altered traits) của họ khớp với những mô tả cổ xưa về sự chuyển hóa lâu dài ở các cấp độ cao hơn.

Một tâm trí không bị xáo trộn (free from disturbance) có giá trị trong việc làm giảm bớt khổ đau của con người—một mục tiêu chung của cả khoa học và các con đường thiền định. Tuy nhiên, bên cạnh những đỉnh cao cao quý của bản thể (lofty heights of being), còn có một tiềm năng thiết thực hơn nằm trong tầm với của mỗi chúng ta: một cuộc sống được mô tả tốt nhất là hưng thịnh (flourishing).

SỐNG HƯNG THỊNH (FLOURISHING)

Truyền thuyết kể lại rằng khi Alexander Đại đế đang dẫn quân đội của mình đi qua khu vực ngày nay là Kashmir, ông đã gặp một nhóm các Yogi khổ hạnh (ascetic yogis) tại Taxila, khi đó là một thành phố thịnh vượng trên một nhánh của Con đường Tơ lụa dẫn đến đồng bằng Ấn Độ.

 Các Yogi đã phản ứng với sự xuất hiện của những người lính hung dữ của Alexander bằng sự thờ ơ (indifference), nói rằng ông ta, giống như họ, thực sự chỉ có thể sở hữu được mảnh đất mà ông ta đang đứng—và rằng ông ta, giống như họ, cũng sẽ phải chết một ngày nào đó.

 Từ có nguồn gốc Hy Lạp dùng để chỉ những Yogi này là gymnosophists, nghĩa đen là 'các triết gia trần trụi' (ngay cả ngày nay, một số nhóm Yogi ở Ấn Độ vẫn đi lại trần truồng, phủ tro lên người). Alexander, bị ấn tượng bởi sự thanh thản (equanimity) của họ, đã coi họ là 'những người tự do' (free men), và thậm chí đã thuyết phục được một Yogi tên là Kalyana đi cùng ông trong hành trình chinh phạt. Không còn nghi ngờ gì nữa, lối sống và quan điểm của Yogi đã cộng hưởng với nền giáo dục của chính Alexander. Alexander từng được triết gia Hy Lạp Aristotle dạy dỗ. Nổi tiếng với tình yêu học hỏi suốt đời, Alexander chắc hẳn đã nhận ra những Yogi này là những tấm gương điển hình cho một nguồn trí tuệ khác.

Các trường phái triết học Hy Lạp tán thành một lý tưởng về sự chuyển hóa cá nhân (personal transformation) mà lại vang vọng một cách đáng kinh ngạc những lý tưởng tương tự ở châu Á, như Alexander có thể đã nhận thấy trong cuộc trao đổi với Kalyana. Tất nhiên, người Hy Lạp và những người thừa kế của họ là người La Mã, đã đặt nền móng cho tư tưởng phương Tây cho đến tận ngày nay.

 Aristotle đã đưa ra mục tiêu của đời người là eudaimonia—một phẩm chất của sự sống hưng thịnh (flourishing—sống hưng thịnh, cuộc sống tốt đẹp, hoặc hạnh phúc viên mãn) dựa trên đức hạnh, một quan điểm vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức trong tư tưởng hiện đại. Aristotle nói rằng các đức hạnh (virtues) đạt được một phần bằng cách tìm ra 'điểm trung dung hợp lý' (right mean) giữa hai thái cực; lòng can đảm nằm giữa sự liều lĩnh bốc đồng và sự hèn nhát, sự tiết chế chừng mực nằm giữa thói tự chiều chuộng và sự khước từ khổ hạnh.

Và, ông ấy nói thêm, bản chất chúng ta không phải là người có đức hạnh, nhưng tất cả chúng ta đều có tiềm năngđể trở nên như vậy thông qua nỗ lực đúng đắn.
Nỗ lực đó bao gồm những gì ngày nay chúng ta gọi là tự theo dõi (self-monitoring), tức là việc thực hành liên tục ghi nhận những suy nghĩ và hành động của mình.

Các trường phái triết học Hy Lạp-La Mã khác cũng sử dụng những phương pháp thực hành tương tự trên con đường hướng tới sự sống hưng thịnh (flourishing) của họ. Đối với Trường phái Khắc kỷ (Stoics), một nguyên tắc then chốt là nhận ra rằng cảm xúc của chúng ta về các sự kiện trong đời, chứ không phải bản thân những sự kiện đó, mới quyết định hạnh phúc của chúng ta; chúng ta tìm thấy sự thanh thản (equanimity) bằng cách phân biệt giữa những gì chúng ta có thể kiểm soát trong cuộc sống và những gì chúng ta không thể. Ngày nay, tín điều đó vẫn được lặp lại trong phiên bản cầu nguyện Mười Hai Bước phổ biến của nhà thần học Reinhold Niebuhr:

Hởi Thượng đế, xin ban cho con sự thanh thản (serenity) để chấp nhận những điều con không thể thay đổi,
Lòng can đảm (courage) để thay đổi những điều con có thể,
Và trí tuệ (wisdom) để phân biệt được sự khác biệt.

 Con đường cổ điển để đạt được 'trí tuệ để phân biệt sự khác biệt' nằm ở việc rèn luyện tinh thần (mental training). Các trường phái Hy Lạp này coi triết học là một nghệ thuật ứng dụng và giảng dạy các bài tập quán chiếu (contemplative exercises) và tự kỷ luật như những con đường dẫn đến sự sống hưng thịnh (flourishing). Tương tự như những đồng nghiệp ở phương Đông, người Hy Lạp nhận thấy rằng chúng ta có thể nuôi dưỡng những phẩm chất của tâm trí nhằm thúc đẩy hạnh phúc. Các phương pháp thực hành của người Hy Lạp để phát triển đức hạnh được giảng dạy công khai ở một mức độ nào đó, trong khi những phương pháp khác dường như chỉ được truyền cho những người đã được khai tâm (initiates) như Alexander, người đã ghi nhận rằng các văn bản triết học chỉ có thể được hiểu đầy đủ trong bối cảnh của những lời dạy bí mật này.(Tính Chất Bí mật: Các phương pháp thực hành sâu sắc nhất đôi khi được giữ kín và chỉ truyền đạt cho người đã được khai tâm, cho thấy một sự cam kết cá nhân và chuyên sâu đối với việc rèn luyện này.)

Trong truyền thống Hy Lạp-La Mã, những phẩm chất như liêm chính (integrity), lòng tốt (kindness), sự kiên nhẫn(patience), và khiêm tốn (humility) được coi là chìa khóa cho hạnh phúc bền vững (enduring well-being). Những nhà tư tưởng phương Tây này và các truyền thống tâm linh châu Á đều thấy giá trị trong việc nuôi dưỡng một cuộc sống đức hạnh thông qua một sự chuyển hóa bản thể (transformation of being) tương đối giống nhau.Chẳng hạn, trong Phật giáo, lý tưởng về sự sống hưng thịnh nội tâm (inner flourishing) được diễn tả bằng thuật ngữ bodhi (giác ngộ-trong tiếng Pali và Sanskrit), một con đường tự hiện thực hóa (self-actualization) nhằm nuôi dưỡng 'những điều tốt đẹp nhất bên trong mỗi người'.20

Tâm lý học ngày nay sử dụng thuật ngữ hạnh phúc (well-being) để chỉ một phiên bản của khái niệm sống hưng thịnh(flourishing) theo kiểu Aristotle. Nhà tâm lý học Carol Ryff tại Đại học Wisconsin (và là đồng nghiệp của Richie ở đó), dựa trên Aristotle cùng nhiều nhà tư tưởng khác, đã đưa ra một mô hình hạnh phúc với sáu khía cạnh sau:

  • 1. Tự chấp nhận (Self-acceptance): Cảm thấy tích cực về bản thân, thừa nhận cả những phẩm chất tốt nhất và những phẩm chất chưa tốt, và cảm thấy ổn với việc mình là chính mình. Điều này đòi hỏi một ý thức tự nhận biết không phán xét (nonjudgmental self-awareness).
• 2. Phát triển cá nhân (Personal growth): Cảm giác rằng bạn tiếp tục thay đổi và phát triển hướng tới tiềm năng tối đa của mình—trở nên tốt hơn theo thời gian—tiếp thu những cách nhìn nhận hoặc tồn tại mới và tận dụng tối đa tài năng của mình. Thiền sư Suzuki Roshi từng nói với các học trò: "Mỗi người trong các bạn đều hoàn hảo như hiện tại," và thêm rằng, "nhưng các bạn cần cải thiện thêm một chút"—điều này dung hòa một cách khéo léo giữa sự chấp nhận và sự phát triển.
• 3. Tự chủ (Autonomy): Độc lập trong suy nghĩ và hành động, tự do khỏi áp lực xã hội, và sử dụng tiêu chuẩn của riêng bạn để đánh giá bản thân. (Điều này áp dụng mạnh mẽ nhất trong các nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa như Úc và Hoa Kỳ, so với các nền văn hóa như Nhật Bản, nơi sự hòa hợp với tập thể được đề cao hơn.)
• 4. Sự tinh thông/Làm chủ (Mastery): Cảm thấy có đủ năng lực để xử lý những phức tạp của cuộc sống, nắm bắt các cơ hội khi chúng đến, và tạo ra những tình huống phù hợp với nhu cầu và giá trị của bản thân.
• 5. Các mối quan hệ thỏa đáng (Satisfying relationships): Các mối quan hệ có sự ấm áp, đồng cảm, và tin tưởng, cùng với sự quan tâm lẫn nhau và sự cho và nhận lành mạnh (healthy give-and-take).
• 6. Mục đích sống (Life purpose): Có những mục tiêu và niềm tin mang lại cho bạn cảm giác ý nghĩa và phương hướng. Một số triết gia lập luận rằng hạnh phúc thực sự đến như một sản phẩm phụ của ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống.

Ryff xem những phẩm chất này là một phiên bản hiện đại của eudaimonia—'cái thiện cao nhất của nhân loại' theo Aristotle, tức là sự hiện thực hóa tiềm năng độc đáo của bạn.21 Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, các hình thức thiền định khác nhau dường như nuôi dưỡng một hoặc nhiều hơn những năng lực này. Sát sườn hơn, một số nghiên cứu đã xem xét cách thiền định cải thiện điểm số của mọi người trên chính thang đo hạnh phúc (well-being) của Ryff.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), chưa đến một nửa số người Mỹ báo cáo rằng họ cảm thấy có mục đích sống mạnh mẽ (strong sense of purpose) vượt ra ngoài công việc và nghĩa vụ gia đình.22 Khía cạnh đặc biệt đó của hạnh phúc có thể mang ý nghĩa quan trọng: Viktor Frankl đã viết về việc ý thức về ý nghĩa và mục đích đã giúp ông và một số người khác sống sót qua nhiều năm trong trại tập trung của Đức Quốc xã, trong khi hàng nghìn người khác đang chết dần xung quanh họ. 23 Đối với Frankl, việc tiếp tục công việc của mình như một nhà trị liệu tâm lý với các tù nhân khác trong trại đã mang lại mục đích cho cuộc đời ông; đối với một người đàn ông khác, đó là việc có một đứa con đang ở bên ngoài; một người khác nữa thì tìm thấy mục đích trong cuốn sách mà ông muốn viết.

 Tình cảm của Frankl cộng hưởng với một phát hiện cho thấy sau một khóa nhập thất thiền kéo dài ba tháng (tổng cộng khoảng 540 giờ), những người tham gia đã củng cố ý thức về mục đích sống trong thời gian đó cũng đồng thời cho thấy sự gia tăng hoạt động của enzyme telomerase (một dấu hiệu sinh học tích cực) trong các tế bào miễn dịch của họ, ngay cả năm tháng sau đó.24 Enzyme này bảo vệ chiều dài của telomere—những cái mũ ở đầu các sợi DNA phản ánh tuổi thọ của một tế bào.

Cứ như thể các tế bào trong cơ thể đang nói, 'Hãy ở lại—bạn còn có công việc quan trọng phải làm.'Mặt khác, như các nhà nghiên cứu lưu ý, phát hiện này cần được nhân rộng trong các nghiên cứu được thiết kế tốt hơn trước khi chúng ta có thể chắc chắn hơn.

 Một điều cũng đáng quan tâm là: tám tuần thực hành các hình thức chánh niệm (mindfulness) khác nhau dường như đã làm tăng kích thước một vùng trong thân não (brain stem) có mối tương quan với sự gia tăng điểm số hạnh phúc (well-being) trên thang đo của Ryff.25 Tuy nhiên, nghiên cứu này khá nhỏ—chỉ có mười bốn người—và do đó, cần phải được thực hiện lại với một nhóm lớn hơn trước khi chúng ta có thể đưa ra những kết luận chắc chắn hơn.

Tương tự như vậy, trong một nghiên cứu riêng biệt, những người thực hành một hình thức chánh niệm (mindfulness) phổ biến đã báo cáo mức độ hạnh phúc (well-being) và các lợi ích khác cao hơn cho đến một năm sau đó. Mức độ chánh niệm hàng ngày càng cao, sự gia tăng chủ quan (subjective boost) về hạnh phúc càng lớn. Một lần nữa, số lượng người tham gia trong nghiên cứu này cũng nhỏ, và một phép đo về não bộ—mà như chúng tôi đã nói, ít bị sai lệch tâm lý (psychological skew) hơn so với việc tự đánh giá—sẽ thuyết phục hơn nhiều.

 Vì vậy, mặc dù chúng tôi thấy kết luận rằng thiền tập giúp tăng cường hạnh phúc (well-being) là một ý tưởng hấp dẫn, đặc biệt là với tư cách là những người thực hành thiền, nhưng khía cạnh khoa học của chúng tôi vẫn giữ thái độ hoài nghi(skeptical).

 Những nghiên cứu như thế này thường được trích dẫn như là bằng chứng 'chứng minh' giá trị của thiền tập, đặc biệt là ngày nay, khi chánh niệm (mindfulness) đã trở thành một trào lưu thịnh hành (flavor du jour). Tuy nhiên, nghiên cứu về thiền tập có sự khác biệt rất lớn về độ tin cậy khoa học (scientific soundness)—mặc dù khi được sử dụng để quảng bá một nhãn hiệu thiền, ứng dụng, hay một 'sản phẩm' quán chiếu nào đó, sự thật phiền phức này lại bị bỏ qua.

Trong các chương tiếp theo, chúng tôi đã sử dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để phân loại sự thật và những lời phóng đại. Vậy khoa học thật sự nói gì về các tác động của thiền tập?
***



 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét