Tác giả: Alexander Berzin, Sofia, Bulgaria, 2012
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất
cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật
Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương
Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng
ta cần Phật Giáo?
Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta
nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy
là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và
tín ngưỡng Phật Giáo:
* Khi chúng ta nói về khoa học Phật Giáo, điều này
liên hệ đến những thứ như luận lý (logic), chúng ta biết về mọi thứ như thế
nào, và một cách căn bản quan điểm về thực tại - vũ trụ đã hiện hữu như thế
nào, v.v…, những thứ này - sự liên hệ giữa tâm thức và vật chất. Và tất cả những
thứ này đang đối diện với những chủ đề khoa học, và Phật Giáo có rất nhiều để cống
hiến trong những lãnh vực này.
* Rồi thì tâm lý học Phật Giáo đối diện với tình trạng
khác nhau của cảm xúc, một cách đặc biệt những cảm xúc quấy rầy những thứ làm
chúng ta phải có vô số phiền toái (giận dữ, ganh tỵ, tham dục,…). Và Phật Giáo
thì rất phong phú về những phương pháp trong việc đối phó với những rắc rối sinh
khởi từ những cảm xúc quấy rầy như thế nào.
* Tín ngưỡng Phật Giáo, trái lại, đối diện với những
khía cạnh nghi lễ, cầu nguyện; nó đối diện với những chủ đề như tái sanh. Và đấy
cũng là một lãnh vực rất dồi dào.
Thế nên, khi chúng ta hỏi, "Tại sao Phật Giáo?
Chúng ta cần gì đối với Phật Giáo ở phương Tây trong thế giới tạm bợ này?"
thế thì tôi nghĩ rằng chúng ta cần nhìn một cách đặc biệt ở khoa học Phật Giáo
và tâm lý học Phật Giáo. Nếu người ta quan tâm trong những khía cạnh tín ngưỡng
Phật Giáo hơn, điều ấy rất tốt; không hề gì. Nhưng tổng quát má nói thật không
dễ dàng gì nếu quý vị chuyền từ một tôn giáo này qua một tôn giáo khác, và đối
với hầu hết mọi người nó tạo nên xung đột trong chính họ, sự xung đột thành
tín, và một cách đặc biệt có thể tạo ra rắc rối trong thời khắc lâm chung - quý
vị rất bối rối về những gì thật sự tin tưởng.
KHOA HỌC PHẬT GIÁO
Luận
lý (logic)
Luận lý là một bộ phận rất quan trọng của sự tu tập
Phật Giáo, và phương thức mà nó được học tập là trong hình thức của sự tranh luận.
Vậy thì mục tiêu của tranh luận là gì? Mục tiêu của sự tranh luận không phải là
thắng đối thủ của ta, để chứng minh đối thủ là sai. Nhưng đúng hơn, toàn bộ sự
tranh luận là có một người nào đấy ủng hộ, và họ tuyên bố một vị thế nào đấy
hay một sự thấu hiểu nào đấy về một điểm nào đấy của giáo huấn nhà Phật và một
người khác thử thách sự thấu hiểu của họ và đang cố gắng để thử nghiệm người
khác để thấy họ vững vàng như thế nào trong sự thấu hiểu của họ. Và nếu quý vị
tin tưởng điều này hay điều nọ, thế thì một cách hợp lý có điều gì khác đi theo
nó. Và nếu những gì đi theo nó là vô lý, không có ý nghĩa gì, thế thì có điều
gì đấy sai lầm với sự thấu hiểu của quý vị. Cho nêu thật quan trọng nếu chúng
ta đang thấu hiểu điều gì liên hệ đến những nhân tố căn bản về thực tại một
cách sâu sắc, hãy nói, chẳng hạn như sự vô thường, thế thì chúng ta muốn - điều
gọi là quán chiếu - chúng ta muốn tư duy một cách sâu sắc về nó là làm nó thành
một bộ phận trong cung cách mà chúng ta nhìn thế giới.
Mọi thứ đang thay đổi từ thời khắc này đến thời khắc
khác, và đấy là điều gì đó thật quan trọng để thấu hiều trong dạng thức của sự
hòa bình tinh thần phổ quát của chúng ta. Thì dụ, quý vị mua một máy điện
toán mới, và rồi thì nó hư hỏng, và quý
vị khó chịu về nó: "Tại sao nó hư?" và v.v… Nhưng nếu quý vị nghĩ về
nó một cách hợp lý, rõ ràng lý do mà nó
hư là vì nó được tạo ra. Bởi vì nó được làm ra từ nhiều bộ phận khác nhau và
nhiều thứ khác nhau được phối hợp lại, thế thì nó không ổn định, và dĩ nhiên ở
một điểm nào đó nó sẽ bị hư.
Ngay cả nếu chúng ta gặp một người nào đấy và chúng
ta phát triển một mối quan hệ thân hữu mạnh mẽ hay ngay cả là một sự hợp tác,
cuối cùng nó chấm dứt. Vậy thì tại sao nó chấm dứt? Tại sao chúng ta chia tay?
Chúng ta chia tay vì chúng ta gặp gở. Mỗi thời khắc sau khi chúng ta gặp gở, mọi
tình huống và mọi nhân duyên đã thay đổi trong đời sống của người này và trong
cuộc sống của ta. Những tình huống đã làm nên sự khởi đầu mối quan hệ thân hữu
của chúng ta không còn hiện hữu nữa, và mối thân hữu lệ thuộc trên tất cả những
điều kiện này, à, khi nó chấm dứt, dĩ nhiên nó sẽ chấm dứt, bởi vì những nhân
duyên hổ trợ nó đã thay đổi. Cho nên sự kiện cuối cùng điều dường như đối với
chúng ta làm nên sự đổ vở - một sự tranh luận, hãy nói thế - chỉ là điều kiện
làm cho mối thân hữu kết thúc. Nếu không phải là điều kiện ấy, nó phải là điều
gì khác. Nhưng nguyên nhân thật sự làm nó đi đến chấm dứt bởi vì nó đã khởi đầu
hình thành.
Thế nên cùng sự kiện như vậy trong hình thức đời sống
của chúng ta (đây là thái độ của Phật Giáo đối với sự chết): Lý do tại sao
chúng ta chết? Lý do là chúng ta đã được sinh ra. Bệnh tật hay tai nạn chỉ là
trạng huống của sự chết. Vì vậy nếu quý vị được sinh ra, quý vị sẽ chết. Đơn giản.
Đấy là thực tại. Đây là những phương diện của khoa học Phật Giáo, và điều này
là hợp lý. Do vậy trong một sự tranh luận, người khác muốn thử nghiệm sự thấu
hiểu của ta về điều này và cố gắng để tìm ra những lỗ hổng trong sự tranh luận
của ta:
* "À, bạn có thể nói, 'Nếu tôi không ăn món này
hay không đi đến chỗ này, tôi sẽ không chết.'"
* Trái lại người kia sẽ nói, "Vâng, nhưng sẽ có
những tình huống khác. Bởi vì bạn được sanh ra, thì bạn sẽ chết."
Thế nên, giống như thế, qua luận lý, qua tranh luận,
chúng ta đi đến một sự thấu hiểu rõ ràng không có một sự do dự nào ("Nó giống
như thế này, hay nó giống như thế kia chứ?"). Cách ấy, sự thấu hiểu của
chúng ta trở nên thật vững vàng, rất ổn định. Và cho dù chúng ta thực hành thiền
quán sau đấy hay bất cứ điều gì, nó trở nên hiệu quả hơn nhiều. Cho nên loại thảo
luận, tranh luận, lý luận này rất hữu ích cho bất cứ người nào trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Chúng ta rất thường nghĩ
trong những cách rất mù mờ; chúng ta không nghĩ về những hậu quả của những hành
động chúng ta làm hay những hậu quả của những cách chúng ta suy nghĩ. Cho nên nếu
chúng ta có thể học suy nghĩ một cách hợp lý, rồi thì chúng ta càng ít có rắc rối
trong đời sống của chúng ta.
Cho nên đây là khía cạnh khoa học của Phật Giáo.
Thực
tại
Rồi thì trong hình thức của thực tại, một điểm mà
chúng ta đã thảo luận trong hình thức của sự vô thường. Mọi thứ đang thay đổi từng
thời khắc và đang tiến gần hơn đến sự chấm dứt của nó. Đây là thực tại. Nó đúng
về tuổi tác của chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ, "Ô, mỗi ngày tôi đang già
hơn" và nghĩ, "À, tốt thôi," nhưng bao nhiêu người trong chúng
ta nghĩ mỗi ngày rằng: "Tôi đang tiến gần tới cái chết. Đây đúng là thực tại"?
Nhưng nếu chúng ta tỉnh thức về điều ấy, rằng mỗi ngày chúng ta tiến gần tới sự
chết của chúng ta và rằng sự chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đấy là sự thật,
thế thì chúng ta sẽ không lãng phí thời gian của chúng ta. Chúng ta sẽ không để
mọi thứ đến ngày mai, ngày mai, ngày mai, mà chúng ta sẽ sử dụng đời sống của
chúng ta trong một cung cách đầy đủ ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể. Và điều đầy
đủ ý nghĩa nhất là cố gắng để làm lợi ích cho người khác. Thế nên đây là thực tại.
Và rất hữu ích để nghĩ, "Nếu đây là ngày cuối cùng của tôi, thì những gì
mà tôi muốn làm trong ngày cuối cùng ấy? Chúng ta sử dụng nó trong m ột cung
cách đầy đủ ý nghĩa nhất như thế
nào?" Bởi vì chúng ta không bao giờ biết khi nào là ngày cuối cùng của ta.
Chúng ta có thể bị xe đụng khi rời phòng này. Điều này không có nghĩa là làm
cho chúng ta chán nản; mà nó có nghĩa là làm cho chúng ta sử dụng thời gian của
chúng ta một cách đầy đủ ý nghĩa hơn.
Một thí dụ khác trong dạng thức về thực tại. Hãy tưởng
tượng ở trong một thang máy với mười người khác, và thang máy bị kẹt. Quý vị bị
kẹt trong thang máy với mười người trong cả ngày. Bạn sẽ đối xử thế nào với
nhau? Nếu bạn bắt đầu đánh nhau, nếu bạn bắt đầu tranh luận, và v.v…, cảnh tượng
sẽ như địa ngục trong thang máy này. Cách duy nhất mà quý vị có thể tồn tại là nếu mọi người là hữu dụng, thân hữu, và tử
tế với nhau, bởi vì tất bị kẹt trong thang máy với nhau; tất cả quý vị cùng ở
trong một hoàn cảnh. Cho nên điều này là hợp lý. Đây là lý trí, có phải không? Thế nên khi chúng ta mở rộng điều này
đến toàn thể hành tinh: Toàn bộ hành tinh giống như một thang máy khổng lồ, và
chúng ta tất cả đều bị kẹt trong hành này với nhau. Nếu chúng ta tranh luận và
đấu đá với nhau, nó chắc chắn chỉ trở nên khốn khổ cho mọi người. Cho nên cách
duy nhất mà chúng ta có thể tồn tại bằng cách mọi người phải thân hữu và ân cần
và hữu ích với nhau, bởi vì tất cả chúng
ta ở đây với nhau và tất cả chúng ta ở trong cùng một hoàn cảnh. Chúng ta thở
cùng một không khí; chúng ta chia sẽ cùng đại dương, nước, và đất. Tất cả chúng
ta cùng ở trong một thang máy. Thế nên giống như thế. Đây là thực tại cùng với
lý trí.
Cũng thế chúng ta tưởng tượng và trù tính phóng
túng. Chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta và những người khác không có bất cứ hậu
quả nào. Cho nên, "Tôi có thể không có một nền học vấn tốt, tôi có thể lười
biếng, và thế nào đấy điều này sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào trong đời sống
của tôi; tôi sẽ vẫn thành công." Hay rằng "Tôi có thể đi trể, hay tôi
có thể nói lời độc ác với bạn, và sẽ không có hậu quả nào." Nhiều người
xem người khác không thật sự có những cảm giác. Họ không bao giờ nghĩ rằng những
gì họ nói ra có thể làm tổn thương người khác. Thế nên "Tôi có thể đi trể,
và không hề gì." Tốt thôi, đây không phải là thực tại. Đây là một vọng tưởng
của sự trù tính phóng túng về nguyên nhân và hậu quả. Nhưng thực tại là mọi người
có cảm xúc, đúng như tôi làm, và những gì tôi nói và tôi hành động như thế nào
sẽ có ảnh hưởng đến cảm xúc của quý vị, đúng như cách mà bạn đối xử với tôi sẽ ảnh
hưởng đến cảm xúc của tôi. Đấy là thực tại có phải không? Và càng hiểu và giữ
chánh niệm về điều ấy, chúng ta càng quan tâm đến chúng ta và người khác. Chúng
ta có thể quan tâm về vấn đề chúng ta ảnh hưởng đến họ như thế nào và chúng ta
điều chỉnh thái độ của chúng ta cho phù hợp.
Hay tôi có thể tưởng tượng rằng tôi tồn tại một cách
độc lập với mọi người khác. Đây cũng không là thực tại, có phải không? Nếu tôi
nghĩ như vậy, rồi thì tôi có thể nghĩ, "tôi nên luôn luôn lo cho tôi. Tôi
là quan trọng nhất. Thế nên tôi nên luôn luôn được phục vụ trước nhất trong nhà
hàng," và nếu chúng ta không có cách mà chúng ta muốn, chúng ta sẽ vô cùng
khó chịu, rất giận dữ. Nhưng rắc rối dĩ nhiên
là mọi người khác nghĩ rằng họ là người quan trọng nhất và không ai sẽ đồng
ý rằng chúng ta quan trọng nhất. Cho nên đây là vọng tưởng của chúng ta. Đây là
sự suy nghĩ phóng túng của chúng ta. Đây không phải là thực tại. Không ai là
trung tâm của vũ trụ. Không ai là quan trọng nhất. Tất cả chúng ta bình đẳng
trong ý nghĩa rằng mọi người muốn được yêu thích, không ai thích bị ghét bỏ. Mọi
người trong nhà hàng đang chờ đợi được phục vụ muốn có thức ăn của họ, không chỉ
riêng ai. Mọi người chờ đợi trong văn phòng bác sĩ muốn đến lượt họ, không chỉ
riêng ai. Thế nên tất cả là bình đẳng. Xét cùng đây là thực tại.
Khoa
học Phật Giáo và khoa học Phương Tây
Đây là phần khoa học Phật Giáo, để thấu hiểu thực tại
và để điều chỉnh thái độ của chúng cho phù hợp. Dĩ nhiên có những khía cạnh của
giáo lý về thực tại. Và thực hấp dẫn về vấn đề khoa học Âu Mỹ đang bắt đầu tìm
thấy nhiều vấn đề từ khoa học Phật Giáo là đúng đắn - những cung cách khác nhau
về nhìn vào sự vật những điều mà chúng không được quan tâm trước đây.
Thí dụ, chúng ta có trong khoa học Âu Mỹ về luật bảo
toàn năng lượng: vật chất và năng lượng có thể hoặc không được tạo ra hoặc
không bị mất đi (mọi vật không tự sanh ra hoặc mất đi, mà nó chỉ chuyển biến từ
vật này qua vật khác), chỉ là chuyển hóa. Nếu chúng ta nghĩ trong hình thức ấy,
những gì theo luận lý ấy là không có bắt đầu và không có chấm dứt. Cho nên khi
nghĩ về dạng thức Big Bang (sự nổ lớn), thế thì chúng ta có thể nghĩ về sự Big Bang không đến từ đâu - nó bắt
đầu từ không vật gì - nhưng theo quan điểm của Phật Giáo là có điều gì đấy trước
khi Big Bang. Phật Giáo không phản đối gì đối với Big Bang như sự khởi đầu của
vũ trụ đặc thù này, nhưng đã từng có vô số vũ trụ trước đây và sẽ có vô số vũ
trụ sau này. Và khoa học Âu Mỹ cũng đang từ từ bắt đầu suy nghĩ trong những dạng
thức này. Và cũng hợp lý từ quan điềm của khoa học Âu Mỹ. Cho nên ở đây một lần
nữa chúng ta đi đến luận lý hợp lý. Nếu chúng ta tin tưởng rằng vật chất vầ
năng lượng có thể không được tạo ra cũng không bị mất đi mà chỉ là chuyển hóa,
thế thì hoàn toàn mâu thuẩn với lý luận được thừa nhận, "Nhưng có một sự bắt
đầu trong Big Bang." Cho nên đây là một thí dụ về áp dụng luận lý Phật
Giáo và sự tranh luận Phật Giáo để đặt vào những vị trí ta có trong khoa học Âu
Mỹ.
Một trong những sự thừa nhận chính trong khoa học Phật
Giáo là sự liên hệ giữa tâm thức và vật chất. Tâm thức và vật chất là liên hệ hổ
tương. Ta không thể quy gọn tâm thức chỉ để vừa trong bộ não hay trong một tiến
trình hóa học nào đấy. Quý vị thấy, rắc rối là khi quý vị sử dụng từ ngữ 'tâm
thứ' thì quý vị có khuynh hướng nghĩ về nó như hiện hữu một loại vật thể nào đấy,
nhưng nó không là khái niệm của Phật Giáo. Khái niệm Phật Giáo đang nói về hoạt
động tinh thần. Và hoạt động tinh thần - là thứ có nghĩa là biết về sự vật -
chúng ta có thể diễn tả nó bằng một tiến trình hóa học hay điện từ nào đó trong
não bộ, nhưng chúng ta cũng có thể diễn tả nó từ quan điểm kinh nghiệm, và
chính quan điểm kinh nghiệm này mà chúng ta đề cập đến khi chúng ta nói về tâm
thức.
Và những nhà y học cũng đang khám phá ra rằng nó
đúng về những gì Phật Giáo nói, đấy là thể trạng tâm thức của chúng ta, phẩm chất
đời sống kinh nghiệm của chúng ta, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe thân thể của chúng
ta. Cho nên nếu chúng ta có hòa bình của tâm thức, sự tĩnh lặng nội tại… Đó có
nghĩa là tự do với những lo lắng và phiền hà triền miên và suy nghĩ trong một
cung cách tiêu cực bi quan. Nếu chúng ta
nghĩ trong những cung cách tiêu cực này, nó sẽ làm tổn hại thân thể của chúng
ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ lạc quan, ân cần về người khác, một cách
thân hữu, tĩnh lặng - điều này làm hệ thống miễn nhiễm mạnh mẽ lên, và nó đưa đến
sức khỏe tốt đẹp hơn. Cho nên y khoa, trong nhiều trung tâm khác nhau khắp thế
giới, đang thực hiện những nghiên cứu về điều này, và họ khám phá ra những gì
Phật Giáo nói là đúng, rằng thể trạng tâm thức chúng ta ảnh hưởng đến thân thể,
nó cũng ảnh hưởng đến vật chất. Và chúng ta có nhiều chương trình ở Âu Mỹ hiện
đang sử đang sử dụng những gì được biết như thiền "chánh niệm" cho việc
khống chế đau đớn để giúp con người đối phó với căng thẳng, đau đớn, và những
tình trạng khó khăn. Điều này đang được lưu lại trên việc tập trung vào hơi thở,
giúp chúng ta tĩnh lặng. Nó nối kết chúng ta với trái đất, trong một ý nghĩa, với
một yếu tố vật chất, vì thế chúng ta sẽ không khó chịu về tư tưởng , "Tôi,
tôi, tôi và nồi đau và nổi lo lắng của tôi" và Tôi quá khó chịu". Cho
nên ta lắng dịu xuống và vô cùng hữu ích cho việc đối phó với sự đau đớn. Thế
nên chắc chắn chúng ta không theo Đạo Phật nhằm để lợi lạc từ những phương pháp
như vậy.
Do vậy, đây là khoa học Phật Giáo.
TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO
Bây giờ, tâm lý học Phật Giáo đối diện với vấn đề
chúng ta biết sự vật như thế nào, vì thế nói cách khác khoa học nhận thức (sự
khác nhau giữa tâm lý học và khoa học không quá tuyệt đối). Do vậy chúng ta có
sự nghiên cứu về những cung cách hiểu biết - chúng ta biết sự vật như thế nào?
- và chúng ta cũng có vấn đề chúng ta đối phó với những rắc rối cảm xúc như thế
nào. Đây là hai lãnh vực của tâm lý học Phật Giáo.
NHỮNG CUNG CÁCH HIỂU BIẾT SỰ VẬT
Điều rất quan trọng là có thể nhận ra sự khác biệt
giữa những cung cách thấu hiểu có căn cứ hợp lý và những cung cách thấu hiểu
không có căn cứ hợp lý hay hiểu biết sự vật. Phật Giáo có nhiều cách nói về điều
này. Một cung cách thấu hiểu có căn cứ hợp lý về điều gì đấy được định nghĩa
như một cung cách hiểu biết cả chính xác và dứt khoát. Chính xác có nghĩa nó là
đúng đắn - nó tương ứng với thực tại; nó có thể là có giá trị đối với người
khác. Và dứt khoát có nghĩa là chúng ta chắc chắn; chúng ta xác định. Nó không
là một thể trạng của tâm thức: "À, có thể nó giống như thế này, hay nó có
thể là như thế kia, nhưng tôi không thật sự biết."
Vậy thì đâu là cung cách hiểu biết sự vật có căn cứ
hợp lý? Chúng ta có thể có những gì được biết như nhận thức trần trụi. Đây là sự
thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, và cảm nhận về một cảm giác nào đó (và chúng ta
cũng có những thứ này trong giấc mơ, và thế thì nó là tinh thần). Cho nên khi
chúng ta thấy người nào đấy, điều này cần chắc chắn. Nó không luôn chắc chắn:
"Tôi nghĩ tôi thấy điều gì đấy ở đó, nhưng tôi không hoàn toàn chắc chắn."
"Tôi ngĩ tôi đã thấy bạn ở trong đám đông, nhưng tôi không hoàn toàn chắc
chắn. Tôi nghĩ tôi thấy bạn, nhưng thật sự đó là người khác." Tôi nghĩ bạn
nói điều này, nhưng có lẽ tôi đã sai và tôi đã nghe khác hơn." Điều đó
không có giá trị, có phải không? Điều này không chính xác và dứt khoát.
Và có thể có nhiều nguyên nhân cho sự bóp méo này.
Giống như tôi lấy mắt kính ra và tôi chỉ thấy lờ mờ trước mắt tôi. Nhưng nếu bạn
không tồn tại như sự lờ mờ, phải thế chứ? Có điều đó sai lầm với đôi mắt của
tôi, và đấy là tại sao nó nhìn méo mó. Nếu tôi hỏi người nào khác, "Bạn có
thấy một hình ảnh lờ mờ ở đó không? Họ sẽ nói không, vì thế tôi biết rằng đây
là sự sai lầm của tôi.
Cho nên chúng ta có nhận thức trần trụi, và ở đây
chúng ta nói về nhận thức chính xác và dứt khoát.
Và cũng thế giá trị là sự thấu hiểu suy luận. Nó phải
là một thứ có giá trị, có căn cứ, không phải là một thứ không đúng. Suy luận.
Lý trí. "Nơi nào có khói thì nơi đó có lửa" là một thí dụ cổ điển.
Quý vị thấy khói bay ra từ một ống khói trên một ngọn núi xa. Cho nên chúng ta
có một nhận thức có giá trị, có căn cứ - chúng ta thấy khói - và chúng ta có thể
kết luận về một ngọn lửa (chúng ta không thật sự thấy lửa). Nói nào có khói,
nơi ấy phải có một ngọn lửa. Cho nên đấy
là có căn cứ.
Nhưng có điều gì đó mà quý vị ngay cả không thể biết
bằng luận lý, giống như tên của một người sống trong căn nhà ấy, và vì thế quý
vị cần một nguồn cội có căn cứ về tin tức. Đó cũng là một loại suy luận - rằng
con người là là một nguồn thông tin có giá trị, cho nên những gì họ nói là
đúng. Thí dụ tốt nhất cho điều ấy là: "Khi nào là sinh nhật của tôi?"
Không có cách nào chúng ta có thể tự biết ngày sinh của chúng ta. Cách duy nhất
mà chúng ta có thể biết về ngày sinh của chúng ta là qua việc hỏi mẹ chúng ta
hay thấy trong giấy khai sinh, vì thế nó
là một nguồn thông tin có giá trị, có căn cứ.
Có nhiều hình thức suy luận. Có sự suy luận căn cứ
trên những quy ước được biết rõ: Bạn nghe một âm thanh. Bạn biết rằng nó là một
chữ thế nào? Và bạn biết ý nghĩa nó thế nào? Đấy hoàn toàn là một tiến trình kỳ
diệu nếu bạn nghĩ về nó. Chúng ta chỉ nghe âm thanh, một cách căn bản, nhưng bởi
vì chúng ta đã học hỏi những quy ước nào đó, chúng ta suy luận khi chúng ta
nghe âm thanh này rằng nó là một âm thanh của một chữ. Và chúng ta suy luận rằng
nó có một ý nghĩa nào đó. Dĩ nhiên chúng ta đôi khi phải kiểm soát bởi vì chúng
ta nghĩ rằng một người có nghĩa gì đó bởi những gì họ nói khi họ thật sự có
nghĩa gì đó hoàn toàn khác biệt.
Vậy thì đây là những gì chúng ta nói đến khi chúng
ta nói về khía cạnh tâm lý học Phật Giáo, khoa học nhận thức. Chúng ta phải kiểm
soát. "Tôi suy luận từ những gì bạn nói đấy là những gì bạn muốn nói,
nhưng điều ấy đúng hay không?" Rất thường chúng ta hiểu sai những những gì
người khác muốn nói, có phải thế không? Người nào đó nói "Tôi yêu bạn,"
và chúng ta có thể nghĩ rằng điều ấy có
nghĩa là họ hấp dẫn tình dục với chúng ta, trái lại hoàn toàn không phải như thế
trong ý nghĩa của họ. Rất nhiều sự hiểu biết sai lạc có thể xảy ra do bởi những
sự suy luận không đúng đắn.
Cho nên nếu nó là một sự suy luận có căn cứ, thì nó
chính xác và dứt khoát.
Sự giả định là nó không giá trị. "Tôi đoán chừng
là bạn muốn nói thế, nhưng tôi không chắc." Sự giả định một cách căn bản
là một sự phỏng đoán. "Tôi phỏng đoán đây là những gì bạn muốn nói."
Nó có thể là đúng, có thể là sai, nhựng không dứt khoát. "Tôi nghĩ rằng
đây là những gì bạn nói." Đó là sự giả định. Nhưng chúng ta không chắc.
Rồi thì có sự không dứt khoát chập chờn: "Bạn
muốn nói thế này chứ, hay bạn muốn nói thế kia chứ?" Chúng ta tiến thoái.
Và rồi thì có một nhận thức bóp méo, vọng tưởng, chỗ
mà chúng ta nghĩ điều gì đấy hoàn toàn sai lạc. Đây hoàn toàn không là những gì
người kia muốn nói.
Vì vậy đây vấn đề nhận thức hoạt động như thế nào,
và Phật Giáo nói đến một sự đối diện phong phú về điều này. Nó rất hữu ích đối
với chúng ta để thấu hiểu, từ bất cứ loại quá khứ nào, "Có phải cung cách
hiểu biết của tôi về điều đúng đắn này hay sai lầm này không?" Nếu tôi vẫn
không chắc, rồi thì tôi cần nhận ra điều ấy và cố gắng để sửa sai nó, cố gắng để
cuối cùng tìm ra thực tại là gì. Cho nên điều này thật hữu ích với bất cứ người
nào. Bạn không cần tín ngưỡng và nghi thức Phật Giáo cho điều này.
CẢM XÚC PHIỀN NÃO
Rồi thì một chủ để chính khác của tâm lý học Phật
Giáo phải làm với những cảm xúc. Chúng ta có cả những cảm xúc tích cực và tiêu
cực. Những cảm xúc tiêu cực là những cảm xúc phiền não; chúng quấy rầy sự hòa
bình tâm hồn của chúng ta. Chúng ta nói về những thứ như giận dữ. Sự định nghĩa
là đây là một tình trạng của tâm thức, là thứ khi nó sinh khởi, nó làm chúng ta
đánh mất sự hòa bình của tâm hồn - vì thế chúng ta trở nên hơi khó chịu, hơi lo
sợ - và nó làm cho chúng ta đánh mất sự tự kiểm soát. Thế nên khi chúng ta giận dữ, năng lượng của
chúng ta - chúng ta có thể cảm nhận nó, nó bị quấy rầy. Và chúng ta nói và làm
những việc mà sau này chúng ta có thể hối hận. Chúng ta đúng là hành động bị
thúc đẩy từ nội tâm.
Chúng ta nghe nhiều trong Phật Giáo về nghiệp báo.
Và nghiệp báo là những gì được nói là khía cạnh bị thúc đẩy cưỡng bách trong
thái độ của chúng ta căn cứ vào thói quen trước đấy. Cho nên khi chúng ta có sự
dính mắc hay tham dục mạnh mẽ, thế thì một
lần nữa chúng ta không trầm tĩnh - chúng ta khó chịu bởi vì chúng ta muốn làm một
việc gì đó - và một lần nữa chúng ta không có sự tự kiểm soát, giống như với
sô-cô-la, mà chúng ta chỉ ăn nó mà thôi.
Cho nên đây là những cảm xúc phiền não. Nhưng về mặt
khác, có những cảm xúc tích cực. Phật Giáo không nói về việc từ bỏ mọi cảm xúc
của chúng ta. Có những thứ như từ ái, niềm mong ước cho người khác được hạnh
phúc và có những nguyên nhân của hạnh phúc bất chấp những gì họ làm, bất chấp vấn
đề họ đối xử với ta hay với người thân ta như thế nào. Và có bi mẫn, niềm mong
ước được tự do khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau. Có nhẫn nhục. Có
sự tôn trọng. Thế nên cũng có nhiều cảm xúc tích cực. Vì vậy, chúng ta cần học
hỏi để có thể phân biệt giữa những gì xây dựng và những gì phá hoại trong những
cảm xúc của chúng ta và trong cung cách hành động của chúng ta. Và Phật Giáo rất
phong phú trong giáo huấn không chỉ trong tất cả những tình trạng cảm xúc khác
nhau này mà chúng ta có thể nhận ra chúng, mà cũng giàu có trong những phương
pháp để giúp chúng ta lìa bỏ những tình trạng phiền não của tâm thức.
Do thế, quý vị nhớ chúng ta đã nói về những nhận thức
sai lầm, về những vọng tưởng của những gì đúng là không thật? Một trong những vọng
tưởng quan trọng nhất là về vấn đề chúng ta hiện hữu như thế nào? Như tôi đã
nói, trong phương cách rất giản dị, chúng ta nghĩ rằng chúng ta là người quan
trọng nhất, rằng chúng ta hiện hữu thuần nhất bởi chính chúng ta và chúng ta
nên luôn luôn có cách của chúng ta, và mọi người phải thích chúng ta. Những gì
rất đáng quan tâm để nghĩ trong dạng thức: "Không phải tất cả mọi người
thích Đức Phật, thế nên tại sao tôi phải mong đợi mọi người sẽ thích tôi?"
Một lời tuyên bố rất hữu ích để nhớ đến.
Do thế, thế nào đi nữa, chúng ta nghĩ trong dạng thức:
"Tôi là thứ thuần nhất này ngồi trong đầu tôi, tác giả của giọng nói diễn
ra trong đầu tôi, lo lắng về vấn đề 'Tôi
nên làm gì? Người ta nghĩ về tôi ra sao?'" Giống như có một cái 'tôi'
nho nhỏ ngồi trong đầu thấy tất cả mọi thông tin xuất hiện trên màn ảnh và cái loa lớn từ những
cảm giác và bấm nút làm cho thân thể tôi
chuyển động hay lời nói hoạt động: "Bây giờ hãy làm việc này. Bây giờ hãy
nói điều ấy." Thế nên đây là một nhận thức phiền não về chính chúng ta.
Làm sao chúng ta biết nó là phiền não? Bởi vì tất cả chúng ta cảm thấy không an
toàn. Nghĩ ngợi như thế, có sự không an toàn và lo lắng này về chính tôi.
"Người ta nghĩ về tôi thế nào?" v.v…, v.v…
Vậy thì điều gì xảy ra là chúng ta có những vọng tưởng này không chỉ về chính chúng ta mà
rồi thì về mọi thứ chung quanh chúng ta. Chúng ta thấy nhiều đối tượng khác
nhau, và chúng ta thổi phồng những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta. Chúng ta vọng tưởng ngay cả những
phẩm chất tốt đẹp mà chúng không có. Giống như khi chúng ta yêu một người nào đấy,
"Họ là người tuyệt vời nhất trên thế giới." Chúng ta hoàn toàn lãng
quên những khuyết điểm mà họ có thể có. "Họ là đẹp nhất, người đáng ao ước
nhất mà tôi đã từng thấy." Và rồi thì nếu chúng ta không có họ, lòng tham
muốn mong đợi: "Tôi phải có người ấy như một người phối ngẫu của tôi, như một người bạn của
tôi." Và nếu chúng ta có họ như bạn của chúng ta, sự dính mắc "chúng
ta không rời xa) và tham muốn (chúng ta muốn bên họ nhiều hơn và nhiều hơn).
Vậy thì đây là một tình trạng phiền não của tâm thức,
có phải không? Chúng ta cần thấy thực tại: mọi người có những điểm mạnh, những
điểm yếu. Chúng ta thường nghĩ, và điều này hoàn toàn không thật, rằng:
"Tôi là người quan trọng nhất. Thế
nên tôi là người duy nhất trong đời bạn. Bạn nên dành mọi thời gian của bạn cho
tôi," và chúng ta hoàn toàn lãng quên
rằng họ cũng có những người khác trong đời họ, những thứ khác mà họ liên
hệ, không chỉ chúng ta. Thế nên chúng ta
giận dữ. Chúng ta cảm thấy không an toàn. Và nếu họ không gọi chúng ta, chúng
ta thổi phồng những phẩm chất tiêu cực của họ, và chúng ta không muốn thấy những
phẩm chất tốt đẹp trong mối quan hệ của chúng ta vỡi người này. Và chúng ta giận
dữ; chúng ta muốn đưa thứ này ra khỏi chúng ta, cho nên chúng ta la lối chúng,
"Tại sao bạn không gọi tôi? Tại sao bạn không đến?" Điều đó căn cứ
trên việc có cái 'tôi' nho nhỏ, rằng tôi phải luôn luôn có lối của tôi, tôi phải
là người quan trọng nhất, và điều không thực tế rằng tôi là người duy nhất
trong cuộc sống của người này.
Phật Giáo đưa ra một sự phân tích rất rõ ràng về những
gì khó chịu, những gì không đúng, trong cách suy nghĩ và cảm nhận này. Bởi vì, quý vị thấy, tâm thức
chúng ta làm mọi thứ xuất hiện như thế, và rắc rối là chúng ta tin tưởng rằng
nó tương ứng với thực tại. Cho nên chúng ta có tất cả mọi phương pháp để, trong
một ý nghĩa, đánh vở quả bóng của suy nghĩ phóng túng, vọng tưởng cùa chúng ta.
Nó có thể cảm nhận như dường như tôi là người duy nhất hiện hữu, bởi vì khi tôi
nhắm mắt lại tôi không thấy ai khác nữa và vẫn có âm thanh trong đầu tôi. Nhưng
điều này là ngờ nghệch. Đó không phải là thực tại. Điều đó không tương ứng với
thực tại. Quý vị không chấm dứt tồn tại khi tôi nhắm mắt tôi lại. Thế nên đây
là căn bản của tâm lý học Phật Giáo.
PHÁT TRIỂN TỪ ÁI VÀ BI MẪN
Trong dạng thức của từ ái và bi mẫn. Chúng ta có nhiều
phương pháp cho việc phát triển những điều này được dạy trong Phật Giáo, và bất
cứ người nào cũng có thể được lợi lạc từ chúng (xét cho cùng không cần phải
tuân theo những phương diện tín ngưỡng của Đạo Phật). Từ ái và bi mẫn căn cứ
trên sự bình đẳng của mọi người: mọi người muốn hạnh phúc và không ai muốn khổ
đau. Mọi người muốn vui sống. Không ai muốn sầu khổ. Tất cả chúng ta giống
nhau.
Tất cả chúng ta liên hệ hổ tương. Toàn bộ đời sống của
tôi tùy thuộc vào sự ân cần tử tế và hoạt động của người khác. Chúng ta nghĩ đến
tất cả những người khác liên hệ trong việc gieo trồng thực phẩm mà chúng ta ăn,
vận chuyển nó, đem nó đến những cửa hàng. Rồi thì có những người xây dựng đường xá và những người chế tạo nên những chiếc
xe vận chuyển thực phẩm. Cao su cho những chiếc bánh xe thì thế nào? Chúng đến
từ nơi nào? Vậy thì cũng có nhiều người liên hệ đến công kỹ nghệ ấy. Và về xăng
dầu và những con khủng long và v.v… mà thân thể của chúng phân hủy và làm nên
xăng dầu này thì sao? Cho nên nếu chúng ta nghĩ như thế, thế thì chúng ta thấy
rằng chúng ta hoàn toàn liên hệ hổ tương và tùy thuộc vào những thứ khác.Và điều
này trở thành thậm chí biện chứng hơn trong dạng thức của kinh tế toàn cầu.
Thế nên trên căn bản của sự thấu hiểu sự bình đẳng ấy
của tất cả mọi người và sự liên hệ hổ tương của chúng ta với mọi người, rồi thì
chúng ta nghĩ trong dạng thức của: "Bất cứ rắc rối nào hiện diện, chúng phải
được giải quyết." Bởi vì một trong những những đạo sư vĩ đại Ấn Độ đã nói,
"Vấn nạn và khổ đau không có một người chủ; khổ đau cần được xóa bỏ, không
phải bởi vì nó là khổ đau của tôi hay khổ đau của bạn - nó phải đươc xóa bỏ bởi
nó làm tổn thương." Thế nên khi có một vấn nạn với môi trường, hãy nói, nó
không chỉ là vấn nạn của tôi hay rắc rối của bạn; nó và vấn đề của tất cả chúng
ta. Không có chủ nhân của rắc rối. Nó phải được giải quyết bởi vì nó là rắc rối,
đơn giản bởi vì nó một vấn nạn và làm rắc rối đến mọi người.
Vậy thì giống như thế, chúng ta phát triển từ ái và
bi mẫn trong một phương pháp mà không cần phải làm gì với tín ngưỡng, nhưng
hoàn toàn căn cứ trên luận lý hợp lý và thực tế.
TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO
Vậy thì khi chúng ta hỏi, "Tại sao Phật
Giáo?" đây là những khía cạnh làm Phật Giáo liên hệ gới chúng ta trong thế
giới phương Tây, những phương diện khoa học và những phương diện tâm lý học. Rồi
thì đối với một ít người Âu Mỹ chúng ta, thêm nữa chúng ta có thể thấy những
khía cạnh tín ngưỡng lợi lạc của Phật Giáo - những nghi thức, giáo huấn về tái
sanh, những sự cầu nguyện, và v.v… Nhưng khi tôi nói, thật quan trọng để thẩm
tra một cách thật cẩn thận những gì là lý do cho sự hấp dẫn này. Có phải nó chỉ
là sự quyến rũ ngoại lai không? Có phải
chúng ta đang tìm kiếm một loại phép lạ nào đó? Có phải chúng ta đang làm việc
này như một sự nổi loạn chống lại cha mẹ chúng ta và truyền thống của chúng ta
không? Chúng ta đang làm việc này chỉ bởi vì nó là xu hướng hiện tại; nó được gọi
là "mới mẻ" (cool) liên hệ với Đạo Phật không? Đây không là những lý
do thích hợp, bởi vì chúng không tồn tại lâu; chúng không ổn định. Nếu chúng ta
bị quyến rũ và chúng ta thấy nó là lợi ích cho chúng ta (nó giúp chúng ta trở
thành một người ân cần hơn, yêu thương hơn), và nó bổ sung cho những khía cạnh
của khoa học và tâm lý học - và điều ấy là quan trọng, rằng nó cần thiết để bổ
sung cho khoa học và tâm lý học và không thể thay thế nó - mà nếu những khía cạnh
tín ngưỡng có những đặc trưng này cho chúng ta, thế thì tốt thôi.
Vậy thì giống như thế chúng ta phân biệt khoa học,
tâm lý học và tín ngưỡng Phật Giáo.
Đó là tất cả những gì trong sự trình bày của tôi. Có
lẽ quý vị có thể có những câu hỏi. Bất cứ câu hỏi nào?
HỎI ĐÁP VỀ TÂM THỨC VÀ TÁI SANH
HỎI: Khi
chúng ta nói về tái sanh, chúng ta sử dụng khái niệm về tâm thức. Vậy thì tâm
thức bao phủ nhiều ít thế nào đối với linh hồn?
ĐÁP: Khi chúng ta nói về tái sanh, chúng ta nói về
tâm thức. Tâm thức bao phủ nhiều ít đối
với linh hồn? Chúng ta phải hiểu rằng những gì chúng ta muốn nói về tâm thức và
những gì chúng ta muốn nói về linh hồn.
Tái sanh đang được nói về sự tương tục. Giống như vật
chất và năng lượng có thể không được tạo ra và cũng không bị mất đi nhưng chỉ
là chuyển hóa. Tương tự con người chúng ta, hoạt động tinh thần chủ thể có thể
không được tạo ra cũng không bị hủy diệt. Không hợp lý cho nó để bắt đầu từ
không có gì. Và nếu mỗi thời khắc phát sinh một thời khắc khác trong sự tương tục,
thế thì không hợp lý cho nó để chỉ đến và chấm dứt và biến ra không có gì. Dĩ nhiên luôn luôn có
một sự hổ trợ vật lý nào đó cho hoạt động tinh thần, nhưng nó có thể là năng lượng
vô cùng vi tế; nó không có một thân thể thô phù với một bộ não. Vậy thì đây là
những gì đến từ kiếp sốn đến một kiếp sống đến một kiếp sống, ngay cả trong Quả
Phật, sự tương tực của cá thể, hoạt động tinh thần bản chất chủ thể, là điều có
thể là rất vi tế hay rất thô phù, có nhiều cấp độ về nó, nhưng nó tương tục từ
khắc này đến thời khắc khác đến thời khắc khác mà không có một sự gián đoạn.
Bây giờ, khi chúng ta nói về linh hồn, dĩ nhiên nó
là một từ ngữ Âu Mỹ. Và trong nhiều ngôn ngữ khác nhau - trong ngôn ngữ Tây
phương - chúng ta có từ ngữ tâm thức (mind), chúng ta có từ ngữ tâm linh
(spirit), chúng ta có từ ngữ linh hồn (soul). Chúng không tương ứng với nhau,
ngay cả trong ngôn ngữ Tây phương, và những tôn giáo khác nhau sẽ định nghĩa
linh hồn một cách khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau. Và rồi thì trong những
tôn giáo phương Tây có sự liên hệ giữa linh hồn và Thượng đế. Và rồi thì những
tôn giáo Ấn Độ chúng ta có ngã (atman), và xét cho cùng với những ý tưởng khác
nhau về ngã. Vậy thì thật khó để chỉ khái quát trong dạng thức của từ ngữ linh
hồn.
Nhưng những gì dễ dàng hơn để thảo luận về cái 'tôi' - không chỉ là
khái của cái 'tôi', nhung những gì là cái 'tôi'? Cái 'tôi' hay tự ngã (self) là
điều gì đó mà tất cả chúng ta có, nhưng chúng ta phóng chiếu vào nó, những
phương diện mà trong đó nó nó hiện hữu, là điều không tương ứng với thực tại.
Giống như có một loại cái 'tôi' thuần nhất nào đó, giống như một vali hành lý
trên một chuyến xe vận chuyển, mà nó đi xuyên suốt toàn bộ đời sống của chúng
ta và cũng đi vào kiếp sống kế tiếp của chúng ta. Nó thật hấp dẫn: Quý vị nhìn
vào một tấm hình của chính quý vị như một em bé, và quý vị nói, "Đấy là
tôi." Tôi là gì với điều ấy? Mỗi tế bào trong thân thể đã thay đổi. Cách
suy nghĩ, cách hiểu biết sự vật, là hoàn toàn khác biệt từ lúc tôi là một em
bé. Và tuy thế chúng ta nói, "Đấy là tôi." Vậy thì 'tôi' là gì? 'Tôi'
là một từ ngữ được đặt tên vào tất cả những sự thay đổi liên tục tức thời trong
đời sống của chúng ta. Và 'tôi' không là bất cứ điều gì trong những tấm hình này, nưng từ ngữ 'tôi' liên hệ đến điều
gì đấy trên căn bản của tất cả những thời khắc khác nhau này của đời sống của
tôi, là điều đang thay đổi từ khắc này sáng thời khắc khác.
Thí dụ mà tôi thường dùng là một bộ phim, Star Wars
- Chiến Tranh Của Những Vì Sao. Star
Wars là gì? Chúng ta nói "Tôi đã thấy Star Wars," nhưng có phải chúng
ta có thể thấy toàn bộ bộ phim trong một giây phút? Không. Bất cứ một thời khắc
nào của bộ phim, là Star Wars không? À, vâng. Nó là một thời điểm của bộ phim
Star Wars. Vậy thì Star Wars không giống nhau ở mỗi thời khắc của bộ phim. Star
Wars không chỉ là nhãn hiệu "Star Wars." Cái tên "Star
Wars" liên hệ đến một bộ phim - có một phim Star Wars, nó hiện hữu - nhưng
quý vị không thể thấy nó trong bất cứ phần não của phim nhựa, quý vị không thể
thấy nó trong bất cứ màn cảnh nào, nhưng nó tồn tại như sự thay đổi từ thời khắc
này đến thời khắc khác.
Vậy thì, cái 'tôi' hay tự ngã (self) giống như thế.
Có từ ngữ 'tôi'. Nó liên hệ đến điều gì đó - Tôi đang ngồi đây; Tôi đang làm điều
này; Tôi đang nói chuyện với quý vị. Nhưng nó nó đồng nhất với tâm thức của tôi
hay với thân thể tôi hay bất cứ thời khắc
nào của nó. Nhưng trên căn bản của sự tương tục của thân thể và tâm thức, chúng
ta có thể gọi nó là 'tôi'. Nó không phải bạn. Nó đang thay đổi từ thời khắc này
sang thời khắc khác, và nó không là một thứ thuần nhất. Thế thì quý vị có muốn
gọi nó là linh hồn không? Quý vị muốn gọi nó là gì?
Câu hỏi nào khác?
HỎI: Thuật ngữ mà Đức Phật Thích Ca sử dụng trong
Sanskrit hay Pali về điều giống như thế này?
ĐÁP: Thuật ngữ mà Đức Phật sử dụng là vô ngã - anata
trong Pali hay anatman trong Sanskrit, nghĩa là "không atman - không
ngã" được thừa nhận trong những truyền thống triết lý Ấn Độ khác. Những
trường phái triết lý Ấn Độ khác thừa nhận ngã (atman) như điều gì đấy hiện hữu bất
động (nó không bao giờ thay đổi và nó bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì), không
phần tử (partless - có nghĩa là nó hoặc là cùng kích thước với vũ trụ, ngã cùng
giống với Brahma, toàn bộ vũ trụ, hay ngã (atman) giống như một tia sáng nho nhỏ
nào đó của đời sống), và nó có thể tồn tại hoàn toàn tách rời khỏi thân thể và
tâm thức trong một thể trạng giải thoát.
Một số triết gia Ấn Độ thừa nhận rằng loại ngã ấy có
nhận thức. Đó là trường phái Số Luận (Samkhya).
Và trường phái Nyaya nói rằng nó không có nhận thức. Samkhya nói rằng nó
cư trú trong thân thể này và sử dụng bộ não. Và Nyaya nói nó đi vào thân thể và
nói rằng nhận thức chỉ sinh khởi từ căn bản vật lý của thân thể.
Vậy thì đây là những chỗ mà Đức Phật phủ nhận khi
Ngài nói, "Vô ngã". Ngài muốn nói vô ngã trong cách nó được định
nghĩa và thừa nhận bởi những trường phái khác này. Nhưng có một cái ngã -
atman, có một tự ngã, nhưng nó tồn tại trong một cung cách khác - điều được gọi
là "ngã quy ước" (conventional self hay conventional atman).
Có câu hỏi nào khác không?
HỎI: Nếu ai đấy
tin tưởng vào tái sanh và họ nói họ sẽ tái sanh, làm sao họ biết chắc rằng tất
cả những đặc trưng và tất cả những thông tin chứa trong tâm thức họ sẽ tiếp tục
vào trong kiếp sống tới của họ?
ĐÁP: Trước nhất, Phật Giáo thừa nhận tái sanh là vô
thỉ - không có bắt đầu - có nghĩa là chúng ta có những thói quen và bản năng từ
vô lượng kiếp sống. Vì thế, lệ thuộc vào nhiều nhiều nhân tố khác nhau, chỉ một
số bản năng và xu hướng sẽ biểu hiện rong bất cứ kiếp sống nào. Chắc chắn không
phải là trường hợp mà tất cả những bản năng và sự học hỏi của một người từ ngay
kiếp sống trước sẽ lại biểu hiện trong kiếp sống tới ngay cả nếu chúng ta được
tái sanh như một con người với một sự tái sanh quý báu của loài người, điều ấy
rất hiếm hoi. Rất nhiều tùy thuộc vào những gì chúng ta đã suy nghĩ và thể trạng
tâm thức chúng ta khi chúng ta lìa đời. Và rồi thì tất cả những hoàn cảnh và điều
kiện của kiếp sống tới, là điều không bị giới hạn chỉ trong những điều kiện của
gia đình, nhưng có thể có một sự đói kém trong một xứ sở, có thể có chiến tránh
-có thể có rất nhiều thứ sẽ tác động đến những gì sẽ được biểu hiện.
Thế thì thật quan trọng, để cố gắng để đặt tất cả những
trọng tâm chính yếu trong đời sống của chúng ta vào trong những suy nghĩ hay
thái độ tích cực, chứ không phải những thứ tiêu cực, và để chết trong sự tĩnh lặng,
sự hòa bình của tâm thức, và những tư tưởng những xu hướng tích cực để có thể
tiếp tục trên con đường tâm linh.
HỒI HƯỚNG
Có thể đến đây là lúc thích hợp để kết thúc. Vậy thì
chúng ta nghĩ bất cứ điều gì chúng ta thấu hiểu, bất cứ năng lực tích cực nào
có được từ buổi học hỏi này, nguyện cho nó được sâu sắc hơn và sâu sắc hơn.
Điều ấy có thể giống như tín ngưỡng Phật Giáo, nhưng
nó cũng hoàn toàn là khoa học. Nếu quý vị có một cuộc gặp gở dễ thương với người
nào đấy, và quý vị có một buổi đàm luận đầy đủ ý nghĩa và tích cực, và nó chấm
dứt với tiếng chuông điện thoại reo lên, thế thì năng lượng chỉ rơi đi và quý vị
hoàn toàn quên lãng buổi đàm luận tích cực mà quý vị có trước đó. Nhưng nếu quý
vị chấm dứt với một tác động hổ tương với suy nghĩ "Nguyện cho điều này
làm nên một sự ảnh hưởng tích cực trong tôi,'' thế thì cảm giác tích cực, sự
thông hiểu ấy, đi đến với chúng ta và có thể giúp chúng ta trong cuộc sống. Vậy
thì đó là chúng ta đã kết thúc buổi đàm luận của chúng ta như thế nào, và đấy
là một cung cách rất hữu ích trong việc chấm dứt bất cứ sự tương tác nào với bất
cứ người nào.
Xin cảm ơn.
---
Ẩn Tâm Lộ ngày 14-12-2014
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/world_today/buddhist_science_psychology_religion/buddhist_science_psychology_religion.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét