SỰ HỢP
NHẤT
CỦA
ĐẠI
LẠC
VÀ TÁNH
KHÔNG
Giáo Huấn Về Sự Thực Hành Đạo Sư Yoga
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Thupten Jinpa
Việt dịch: Tuệ Uyển
6- Chương 5: Tán dương và thỉnh cầu
***
NHỮNG LỜI NGUYỆN THỈNH CẦU tiếp theo sự thực hành bảy quán nguyện. Tôi nghĩ rằng
sự thực tập thật sự hay nhấn mạnh chính của lòng sùng mộ đạo sư bắt đầu ở đây.
Để làm những lời nguyện thỉnh cầu với niềm tin và sự tôn kính, đầu tiên phản
chiếu trên những thuận lợi của việc nương tựa vào một đạo sư và những bất lợi của
việc không nương tựa thích đáng và có sự vi phạm trong sự thực hành lòng sùng mộ
đạo sư. Việc phản chiếu trên những phẩm chất của vị đạo sư, trau dồi niềm tin.
Đạo sư yoga không chỉ là một sự thực tập nơi mà sự quán tưởng một bổn tôn và rồi
thực hiện sự cúng dường của bảy quán nguyện, nhưng đúng hơn nó là một vấn đề
nơi mà hành giả xem vị chủ trì tôn sư (đạo sư gốc) của chính mình như một Đức Phật thật sự từ chiều sâu của trái tim
mình. Đã trau dồi quan điểm ấy và thái độ và một niềm mạnh mẽ cần thiết, hành
giả sau đó dấn thân trong sự thực hành của việc thật sự làm vui lòng đạo sư bằng
việc tuân theo sự hướng dẫn của ngài, và đó là qua sự thực tập như vậy mà hành
giả phải cố gắng để có sự di chuyển những sự thực chứng của đạo sư đến sự tương
tục tinh thần của chính mình. Một sự thực tập như vậy được gọi là đạo sư yoga.
Như được nói trong tác phẩm Những Bài Hát Kinh Nghiệm Tâm Linh (Song of Spiritual Experience):
Gốc rễ từ đó tất cả những tích tập căn
lành có thể
Trổ quả thích đáng trong kiếp sống này và những kiếp sống tương lai
Một sự nương tựa có ý thức và dễ dàng trong tư tưởng và hành động
Trên một vị đạo sư thánh thiện của mình, bậc khai mở con đường.
Thấy điều này, hãy làm vui lòng ngài bằng
việc dâng cúng sự thực tập như ngài nói,
Không từ bỏ ngay cả cái giá của sự sống.
Tôi, một hành giả du già, đã thực tập như vậy;
Quý vị cũng tìm sự giải thoát hãy vui lòng thực tập như vậy.
Nếu một người nương tựa vào sự hướng dẫn của một vị đạo sư, người ấy đến gần
hơn việc thành tựu Phật Quả, và tích lũy cùng những công đức như đạt được từ việc
thực hiện những cúng dường đến tất cả chư Phật. Cho nên, hãy quán chiếu trên những
thuận lợi này. Nói tóm lại, nếu chúng ta nhìn một cách cẩn thận, và thăm dò sâu
hơn, chúng ta sẽ thấy rằng (1) ngay cả một niềm hỉ lạc nhỏ nhất mà chúng ta trải
nghiệm trong kiếp sống này một cách tổng quát là những kết quả của những hành
vi đạo đức của chúng ta trong quá khứ; (2) những đạo đức này phụ thuộc vào những
hoàn cảnh cho sự sinh khởi của chúng; và (3) không có cách nào mà những hành vi
tiêu cực có thể sản sinh hạnh phúc. Do bởi những hoạt động của đạo sư, ở giao
điểm này trong kiếp sống này chúng ta có cơ hội to lớn. Trong trường hợp này,
không cần phải hỏi thì sự thành tựu chứng ngộ và đạt được trạng thái kết quả chắc
chắn phụ thuộc vào sự nương tựa đúng đắn vào đạo sư. Điều này cho thấy rằng hạnh
phúc tạm thời và tuyệt đối là kết quả của việc nương tựa thích đáng vào đạo sư.
Trong kiếp sống này, chúng ta thật sự đã gặp vị thầy tâm linh; cho nên, đã quán
chiếu vào những thuận lợi của việc nương tựa thích đáng vào ngài, thì chúng ta phải
tự tin và quyết định rằng chúng ta phải liên hệ với ngài trong một cung cách
thích đáng, và hoan hỉ trong sự kiện rằng chúng ta đã không từng làm bất cứ lỗi
lầm nào trong việc tìm kiếm một đạo sư.
Chỉ có một mối quan hệ với một đạo sư thì không có lợi gì nhiều; nhất thiết phải
có sự nương tựa thích đáng, vì nếu có một sự vi phạm trong lòng sùng mộ đạo sư
thì rất nguy hiểm. Rằng có những bất lợi to lớn và những hậu quả xấu đã được giải
thích cả trong kinh điển lẫn mật điển. Nếu, thí dụ, một người nói lỗi lầm của đạo
sư hay xúc phạm đạo sư, vì ngài là cội nguồn qua đó mà tất cả những hoạt động của
chư Phật đến với chúng ta, vì vậy, một cách gián tiếp hành giả sẽ xúc phạm tất
cả chư Phật. Cho nên, nếu một người có sự vi phạm trong lòng sùng mộ đạo sư nó
sẽ cản trở sự thực tập của người ấy ngay cả trong kiếp sống này, không đề cập số
phận của người ấy trong tương lai. Do thế, chỉ việc tìm cầu một vị đạo sư là
không đầy đủ; chúng ta phải thực hiện một sự nương tựa thích đáng với ngài, được
mô phỏng theo hình thức của những hành giả như Naropa: Hãy quán chiếu vào tiểu
sử của những vị thầy trong quá khứ, các ngài là những gương mẫu cho sự thực
hành lòng sùng mộ đạo sư. Chúng ta có thể thấy những hành giả, những người, khi
nhắc đến tên chủ trì tôn sư của họ thì thật sự có những dòng lệ ngấn trên đôi mắt
họ - những điều này phải được xem như kiểu mẫu. Rồi thì, hãy thực hiện quyết
tâm: tôi sẽ duy trì sự thực tập lòng sùng mộ đạo sư một cách thích đáng.
Những bất lợi của việc không nương tựa thích đáng vào đạo sư là sự đảo ngược những
thuận lợi: thí dụ, không đạt được những mục tiêu tối hậu của hành giả. Tất cả
những điều tốt lành tạm thời và tối hậu cứu kính là hệ quả của việc nương tựa
vào đạo sư và tất cả khổ đau và những điều không toại nguyện là hệ quả của việc
không gặp một đạo sư hay không nương tựa một cách thích đáng vào ngài.
Tiếp theo chúng ta nên phản chiếu vào sự kiện rằng chúng ta đã rất may mắn để gặp
một vị thầy tâm linh như vậy. Ở điểm này, mặc dù ta đã quán tưởng một nhân vật
trung tâm trong hình tướng của Lama Tsongkhapa, nhằm để tạo nên một tác động lớn
hơn trong tâm thức thì được đề nghị rằng ta quán tưởng và tập trung chú ý hơn
vào chủ trì tôn sư ở phía trước. Và ngay cả được đề nghị rằng ta nên quán tưởng
ngài không chỉ trong hiện tướng thông thường mà cũng với tất cả dường như những
khiếm khuyết bề ngoài hoặc những lỗi lầm hời hợt mà ta nhìn thấy. Sau đó hãy
quán chiếu vào những lý do vốn minh chứng đạo sư là một Đức Phật, việc nghĩ vấn đề ngài là người tiến
hành những hành vi cho chư Phật, và v.v... Nếu chúng ta nghĩ về điều ấy, sự hiểu
biết chút ít về giáo pháp mà ta có không chỉ được trau dồi chỉ cho chính chúng ta,
qua sự thông minh của chính ta hay tuệ trí hay tài tình, hay bởi vì có một gia
đình tốt lành trước đây, mà đúng hơn là sự phát sinh từ lòng ân cần của đạo sư.
Chúng ta có thể tưởng tượng số phận mà ta có được nếu ta không gặp gỡ một vị thầy
tâm linh kinh nghiệm, ngay cả ta có thể có một sự thông tuệ rất to lớn và rất sắc
bén. Hãy vui mừng trong sự kiện rằng ta có một cơ hội lớn như vậy.
Khi chư Phật trau dồi tâm bồ đề, các ngài nhìn vào chúng ta trong không gian
lòng từ bi của các ngài và nguyện vọng của các ngài để đạt Giác Ngộ hoàn toàn,
cho nên chúng ta được bao gồm trong tâm bồ đề của các ngài. Lấy thí dụ Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, với ngài mà chúng ta có sự nối kết gần gũi hơn với những Đức
Phật khác, mặc dù chúng ta không thấy ngài bằng đôi mắt trần của chúng ta,
nhưng chắc chắn rằng ngài đã dấn thân trong hành động để cứu độ chúng ta. Nếu
là như vậy, thì không có cách nào để ngài làm việc đó tách khỏi việc thông qua
phương tiện của những vị thầy tâm linh của chúng ta. Điều này chứng minh rằng đạo
sư là người thực hiện những hành động của Đức Phật. Làm sao ngài có thể là Đức Phật, ta có thể tự hỏi, nếu ngài có những
khuyết khiếm và lỗi lầm như vậy như vậy? Để trả lời cho một nghi ngờ như vậy,
chúng ta nên xem xét ý tưởng của chính mình về chính mình: Ngay cả chúng ta có
thể có nhiều tiêu cực và lỗi lầm, nhưng chúng ta vẫn có thể có một hình ảnh
hoàn hảo về chính mình. Chúng ta thấy nhiều trường hợp nơi con người thật sự là
xấu nhưng họ nghĩ về thế giới của chính họ! Cho nên, nghi vấn là những lỗi lầm
và khiếm khuyết có thật sự tồn tại trong đạo sư không hay chúng chỉ là những vọng
tưởng của tâm thức mê lầm của chúng ta. Chúng ta có thể kết luận rằng những lỗi
lầm mà ta thấy trong vị thầy tâm linh của chúng ta là vọng tưởng của chúng ta.
Từ một nhận thức khác, chúng ta có thể cho rằng việc biểu lộ những lỗi lầm như
vậy bởi đạo sư thật sự là một lòng ân cần lớn, vì đó là qua sự xuất hiện của
ngài trong một cung cách bình thường như vậy mà ta có thể thâm nhập vào lòng ân
cần của ngài và có thể thấy ngài và lắng nghe lời của ngài. Thể hiện dáng vẻ
trong một hiện tướng tầm thường của ngài như vậy không phải được làm vì bất lực
mà đúng hơn là bởi vì một hình tướng như vậy thì thích ứng với tính năng của
chính ta. Nếu Đức Phật đã duy trì trong thân chân thật (pháp thân) thì ngài chỉ
được cảm nhận một cách trực tiêp bởi chính chư Phật mà thôi; nếu ngài thể hiện
trong thân thụ hưởng (báo thân) thì ngài chỉ có thể tới gần được các vị Bồ tát ở
cấp độ cao; và nếu ngài thể hiện trong thân biểu hiện tối thượng (ứng thân) thì
ngài chỉ có thể được cảm nhận chỉ những chúng sanh có tính năng cao. Vì chúng
ta không ở trong bất cứ phạm trù nào này, cho nên chúng ta có thể kết luận rằng
sự thể hiện của ngài trong một hình tướng bình thường như vậy, là qua năng lực
của lòng ân cần của ngài đối với chúng ta. Đây cũng là những phương tiện thiện
xảo của ngài.
Việc thể hiện trong một hình tướng bình thường không có nghĩa là tránh một hiện
tướng tột đỉnh hay con mắt tuệ trí và v.v..., mà đúng hơn là phương tiện xuất
hiện thật sự chỉ như một con người bình thường. Chúng ta không thể phân biệt giữa
một con người bình thường và một thánh giả, một bậc tôn quý, từ hiện tướng thân
thể đơn thuần. Thay vì thế, sự phân biệt được thực hiện trên cấp độ của sự thực
chứng – cho dù người ấy đã thực chứng tánh không một cách trực tiếp hay chưa.
Trong cùng cách, một người là Bồ tát hay không được quyết định trên căn bản của
việc người ấy đã phát tâm bồ đề hay chưa. Tất cả những sự phân biệt này được thực
hiện trên căn bản trình độ của tâm thức. Trong cùng cách, ý nghĩa của việc giả
định một hình tướng thông thường là có tất cả những lỗi lầm thông thường của
con người, giống như những cảm xúc phiền não và v.v... Một người xuất hiện
không có những lỗi lầm này một cách thông thường được xem như không bình thường,
ngay cả trong những điều kiện quy ước trần gian. Cho nên, tất cả những hành vi
vốn cho thấy rằng đạo sư sở hữu những trạng thái tiêu cực của tâm thật sự là
phương tiện thiện xảo. Đó là do bởi những phương tiện này mà chúng ta có thể thấy
ngài và có thể thâm nhập vào tuệ trí của ngài. Nếu ngài không thể hiện trong
hình tướng này thì không có cách nào ngài có thể thuần hóa chúng ta. Cho một
thí dụ: Nếu chúng ta muốn gọi một con mèo con chúng ta phải bắt chước con mèo mẹ
bằng việc gọi “meo meo!” như thế thích hợp với tâm thức nó. Chúng ta có thể dấu
mặt và gọi mèo con đến ta bằng việc bắt chước âm thanh ấy. Nếu, trái lại, chúng
ta cứ trì tụng kinh kệ hay điều gì giống như thế, mèo con sẽ chạy mất! Cùng
cách ấy, nếu đạo sư thể hiện trong hình tướng bình thường, nhưng hình thể cứu
kính của thân chân thật, thì ngài không thể thâm nhập vào chúng ta. Do vậy, việc
suy nghĩ về những dòng như vậy, và việc thấy những lỗi lầm hời hợt trong đạo sư
như một biểu hiện của phương tiện thiện xảo giúp niềm tin của chúng ta tăng trưởng.
Qua những kỷ năng như vậy thì chúng ta có thể thật sự làm cho nhận thức về những
lỗi lầm trong đạo sư để hỗ trợ sự tăng trưởng niềm tin trong ngài. Vì vậy, với
những quán chiếu như vậy thì chúng ta nên lập lại thi kệ ca ngợi danh hiệu của
Lama Tsongkhapa, suy nghĩ: Qua lòng ân cần của ngài, tôi đã đạt được những cơ hội
như vậy; nếu tôi không được ở trong sự chăm sóc của ngài thì số phận của tôi sẽ
ra sao? Thực hiện trong cách này, sự lập lại thi kệ ca ngợi Lama Tsongkhapa sẽ
rất tác động.
Có rất nhiều phiên bản khác nhau của “Migtsema,” thi kệ tán dương Lama
Tsongkhapa – năm dòng, bốn dòng, sáu dòng, chín dòng, và v.v... Thi kệ tán
dương đến Lama Tsongkhapa ở đây được trì tụng với chín dòng. Nhiều kỷ năng liên
hệ đã được giải thích về Migtsema. Với bốn dòng và năm dòng Migtsema được trì tụng
trong đạo sư yoga Gaden Lhagyama, và thi kệ ca tán dương Lama Tsongkhapa (Sumatikirti) chín dòng phối hợp với Lama
Chopa. Nhưng trong một số luận giải, nó được đề cập ở đây trong Lama Chopa thì
những thi kệ bốn và năm dòng là đầy đủ. Thi kệ chín dòng là:
Kim Cang Trì, nguồn gốc của tất cả chứng
ngộ, chủ tể của các bậc hiền thánh;
Quán Thế Âm, kho tàng vĩ đại của lòng từ
bi vô úy
Văn Thù Sư Lợi, chủ tể của tuệ trí vô nhiễm;
Chủ tể bí mật, phá tan tất cả ma vương;
Sumatikirti, mão báu của các hiền nhân của quốc độ tuyết sơn:
Đến ngài, Đức Phật đạo sư, bao gồm cả ba
đối tượng quy y,
Tôi thỉnh cầu, biểu lộ tôn kính với ba cánh cửa của tôi.
Xin hãy ban cho sự gia hộ của ngài để làm chín muồi và giải thoát chính tôi và
những người khác;
Xin hãy ban cho những chứng ngộ tối thượng và thông thường.
Nếu đang thực thành lamrim thì ta có thể trì tụng thỉnh cầu đến những đạo sư của
dòng truyền thừa lamrim trước khi trì tụng thi kệ ca ngợi Lama Tsongkhapa hay nếu
ta đang thực hành sự thực tập này trong liên kết với đại hoàn thiện, thì ta có
thể trì tụng lời cầu nguyện đến những đạo sư của đại hoàn thiện ở đây.
Đôi khi, vì lợi ích phổ thông của Tây Tạng, thì chúng ta có thể thực hiện những
lời cầu nguyện đặc biệt đến đạo sư Liên Hoa Sanh và lập lại mật ngôn của ngài ở
điểm này. Điều này cũng rất tốt. Giống như Gedun Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
hai, đã nói:
Liên Hoa Sanh, bậc thượng thủ trong tất cả
những bậc chứng ngộ,
Atisha, là thượng thủ cả tất cả các học giả,
Và Văn Thù Lama Tsongkhapa -
Tất cả các ngài là một bản chất và cũng là những biểu hiện của nhau.
Cho nên, ở điểm này, thì ta có thể thực hiện những cầu nguyện đến Đạo sư Liên
Hoa Sanh. Thật rất tốt, nếu ta có thể thực hiện những cầu nguyện khuyến thỉnh
trong cơ sở của một văn bản Nyingma độc quyền; nếu không thì ta có thể thực hiện
nó trong mối liên hệ với Lama Chopa. Một cách tổng quát, tôi lập lại mật ngôn của
Đạo sư Liên Hoa Sanh ngay sau thi kệ danh hiệu của Lama Tsongkhapa.
Tiếp theo đến việc thực hiện những lời cầu nguyện khuyến thỉnh đến đạo sư,
trong khi quán chiếu về những phẩm chất của ngài.
43. Ngài là một nguồn cội của lương tri,
một đại dương mênh mông của nguyên tắc đạo đức,
Và tràn ngập một kho báu châu báu rộng lớn;
Bậc Thầy, vị vua thứ hai của các bậc hiền thánh phủ trong y vàng,
Ô bậc trưởng lão, thủ trì luật tạng, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Sự liên tiếp của những câu kệ này liên quan đến việc trau dồi niềm tin bằng việc
quán chiếu trên những phẩm chất của đạo sư, và trau dồi sự tôn kính bằng việc
quán chiếu trên lòng ân cần của ngài. Thông điệp đầu tiên trình bày cung cách
mà trong đó chúng ta trau dồi niềm tin của chúng ta. Như đạo sư Ấn Độ
Shakyaprabha nói trong Ba Trăm Thi Kệ Luật
Tạng (The Three Hundred Stanzas On
Vinaya):
Hoàn hảo về đạo đức và thông thạo luật tạng
Người có lòng từ bi đối với người bệnh và có những người đồng hành cao quý
Cố gắng để giúp người khác qua những tặng phẩm cả vật chất lẫn tinh thần
Và có thể cho lời khuyên bảo đúng lúc -
Một bậc như thế có thể được ca ngợi như một vị thầy phẩm chất.
Hãy quán chiếu trên sự kiện rằng đạo sư được phú cho những phẩm chất được liệt
kê trong luật tạng, như trên căn bản của đạo đức là người đã đạt được những thực
chứng của việc thiền định và tuệ trí, hai sự tu tập liên tiếp. Đạo đức liên hệ ở
đây giống như một đại dương rộng lớn. Ngay cả nếu một người có đạo đức trong sạch,
nếu việc học của người ấy không tốt lắm, thì không thể hướng dẫn một cách thiện
xảo. Do thế, đạo sư phải thông thạo trong sự thực tập đạo đức. Chúng ta nên
quán chiếu trên sự kiện rằng đạo sư được phú cho những phẩm chất như được giải
thích trong luật tạng, như một tỳ kheo, và giống như người thừa tự của Đức Phật, và trên căn bản của sự trau dồi niềm
tin đó.
44. Ngài có mười phẩm chất làm nên một bậc
hướng dẫn thích đáng
Để dạy con đường của các đấng Như lai;
Chủ tể của giáo pháp, đại diện của tất cả các đấng chiến thắng;
Ô đạo sư Đại thừa, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thi kệ thứ hai ám chỉ đến đạo sư sở hữu mười phẩm chất (27) như được nói trong
kinh điển. Những phẩm chất này của một vị thầy hoàn hảo được thiết lập bởi Maitreya (Di Lặc) trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
(Mahayana-sutralankara).
45. Với ba cánh cửa khéo chinh phục của
ngài, thông tuệ, nhẫn nại và trung thực,
Đáng kính, biết rõ các mật điển và nghi thức,
Có cả những bộ của mười nguyên tắc, thiện xảo trong trích dẫn và giảng dạy,
Ô bậc thủ trì kim cang quan trọng nhất, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Ở dưới là một tóm tắt của một thi kệ từ Guru Panchasika vốn liệt kê những phẩm
chất của một đạo sư. “Ngài phải có đầy đủ chuyên môn cả mười lãnh vực, thiện xảo
trong việc vẽ mạn đà la, đầy đủ kiến thức về vấn đề giải thích mật điển như thế
nào, niềm tin thanh khiết tối thượng, và những giác quan của ngài hoàn toàn dưới
sự kiểm soát.” “Biết các mật điển và nghi thức” có nghĩa là ngài có kiến thức về
vấn đề áp dụng những thiền định, mật ngôn và v.v... Rồi thì nó nói đến hai bộ của
mười nguyên tắc.(28)
Thi kệ 43 và 45 nói về những phẩm chất của đạo sư như được giải thích trong luật
tạng, kinh tạng và mật tạng. Nếu đạo sư của ta là một vị tỳ kheo cụ túc, thì những
hành thiền này là rất thích đáng. Cho nên, việc quán chiếu về những phẩm chất
này, chúng ta nên thực hiện những cầu nguyện thỉnh cầu (sol deb) từ chiều sâu của
trái tim ta. Sol deb có ý nghĩa của việc thỉnh cầu và tiếp nhận những cảm hứng;
đó là ý nghĩa của những cầu nguyện thỉnh cầu.
46. Ngài chỉ con đường tốt lành của các đấng
Như Lai không sai lầm
Đến những kẻ lưu chuyển cang cường chưa thuần hóa bởi vô lượng chư Phật quá khứ,
Những chúng sanh của thời đại mạt pháp này, khó khăn để kiềm chế;
Ô đấng cứu độ từ bi, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thông điệp này giải thích việc trau dồi lòng tôn kính bằng việc quán chiếu trên
lòng ân cần của đạo sư trong phạm vi của cả kinh thừa và mật thừa. Sự thật rằng
cho đến bây giờ nhiều chư Phật đã đến trong hệ thống thế giới này, và trong kỷ
nguyên (hiện tại hiền kiếp) quý giá hiện tại thôi có những vị Phật quá khứ, như
Đại Ca Diếp; tuy thế suốt trong sự thị hiện của các ngài, chúng ta không có cơ
hội để dấn thân trong sự thực tập giáo pháp. Do thế, chúng ta liên hệ hơn với Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Như được giải thích trong De Lam Martid (Hướng Dẫn Thực Hành Về Các Giai Đoạn Của Con
Đường), thì đạo sư của ta thì ân cần hơn tất cả chư Phật và ngay cả ân cần
hơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta nên quán chiếu: Tôi, người bị bỏ lại sau
tất cả chư Phật đã xuất hiện trong quá khứ, có cơ hội này để thực tập qua lòng
ân cần của ngài mà thôi. Hãy quán chiếu số phận của ta là gì nếu ta không ở dưới
sự chăm sóc của vị đạo sư này. Việc suy nghĩ qua những dòng này sẽ có thể làm
cho ta nhận ra lòng ân cần to lớn của ngài.
47. Vào lúc này của việc thiết lập mặt trời
của giáo huấn các bậc hiền nhân,
Ngài diễn những hành vi của Một Đấng Chiến Thắng
Cho nhiều chúng sanh lưu chuyển, những kẻ thiếu vắng một đấng cứu độ;
Ô đấng cứu độ từ bi, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Đoạn này nói về vấn đề vị chủ trì tôn sư là ân cần hơn Đạo sư Thích Ca Mâu Ni
như thế nào . Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni thị hiện ở Ấn Độ hơn hai mươi lăm thế
kỷ trước. Ngài là một chúng sanh vĩ đại nên thậm chí chỉ thấy ngài hay tối thiểu
tiếp xúc với ngài là đã gieo trồng nhiều hạt giống đạo đức trong dòng tương tục
của tâm linh chúng sanh. Lịch sử đã ghi nhận rằng ngài đã làm chín muồi nhiều
tâm thức chúng sanh và đưa họ vào thể trạng giải thoát. Ngài đã dấn thân trong những
hoạt động vĩ đại như vậy, nhưng trong thời gian ấy thì chúng ta không thể có bất
cứ mối quan hệ cá nhân nào với ngài. Nếu có, thì tình tạng hiện tại của chúng
ta sẽ khác.
Tương tự thế, chúng ta không có cơ hội để gặp gỡ những bậc thầy lớn khác như những
vị thầy quá khứ của Ấn Độ, thí dụ bảy vị thừa kế của Đức Phật, và Long Thọ. Ở Tây Tạng đã có nhiều
vị thầy trong thời sơ khai phổ biến giáo pháp, những bậc làm thỏa mãn nguyện ước
của nhiều chúng sanh, nhưng chúng ta đã không có mặt dưới sự chăm sóc của các
ngài. Và cũng thế, trong thời kỳ phát triển giáo pháp sau này cũng có nhiều vị
thầy vĩ đại của các truyền thống như Sakya và Kadam; đã có những vị thầy như
Atisha và Ngok Legpai Sherab và Dromtonpa và v.v... Trong phái Kagyupa có nhiều
vị thầy vĩ đại như Milarepa, Marpa, và Gampopa. Giáo lý của Đức Phật thật sự lan tỏa rất rộng rãi ở Tây Tạng.
Mặc dù như vậy, chúng ta đã không có hạt giống nghiệp lành để gặp gỡ những vị
thầy này. Bây giờ chúng ta đang ở thời kỳ rất suy tàn của mạt pháp; chúng ta có
thể thấy xung đột ở khắp nơi. Chúng ta phải quán chiếu rằng đạo sư đã đem chúng
ta vào sự chăm sóc của các ngài thật sự là một sự ân cần rất lớn. Để nói nó rõ
ràng hơn, nếu ta đã không được sự chăm sóc bởi vị đạo sư này thì số phận của ta
sẽ như thế nào? Hãy nghĩ: đó chỉ là qua lòng ân cần của ngài mà tôi mới có thể
được quan tâm đến giữa nhân loại.
Qua quán chiếu những dòng này mà chúng ta sẽ có thể thấy lòng tử tế ân cần to lớn
của đạo sư. Hãy thỉnh cầu với chánh niệm về điều ấy. Hãy suy nghĩ trong dạng thức
ấy, thí dụ, có thể đọc do bởi lòng ân cần của người đầu tiên dạy ta những mẫu tự.
Xa hơn nữa, do bởi lòng ân cần của người đã dạy ta ngữ pháp và thi thơ và
v.v...., mà ta mới có thể thấu hiểu chúng. Đối với những học sinh tranh luận,
ngay từ lúc đầu, từ sắc thái (29) của chủ đề, ta được giảng dạy bởi đạo sư. Do
bởi sự học hỏi đó, khi ta đọc những phiên bản dài và ngắn của Lamrim, thì ta
không bỏ phần thứ hai, phần tuệ giác đặc biệt, không đụng đến, như nhiều người
làm. Chúng ta tối thiểu có thể có một trình độ thấu hiểu nào đó. Điều đó giúp
ta nhớ lại lòng ân cần tử tế to lớn của đạo sư. Đối với những ai đã trì tụng những
nghi quỹ chẳng hạn như Yamantaka (Đại Oai
Đức Kim Cang), đó là qua đạo sư mà ta có thể làm theo đó, ngay từ những cầu
nguyện dòng truyền thừa lúc bắt đầu. Sau đó, khi tham dự những buổi giảng dạy về
nghi quỹ, thì ta tối thiểu có một ý tưởng nào đó. Đó không phải bởi vì quý vị tham
dự buổi giảng dạy của tôi, nhưng đúng hơn do bởi vị thầy là người đã giảng dạy
công phu và toàn diện cho ta, mà ta có thể có một số ý tưởng nào đó. Mặc dù tôi
đang giảng dạy quý vị bây giờ, nhưng đó là vị thầy mà quý vị sống với hàng ngày
và người hướng dẫn quý vị trong một tiến trình từ từ là người ân cần tử tế hơn.
Rồi thì có những loại đạo sư nào đó, người truyền cho vị quy giới và thệ nguyện
và v.v...; chúng ta có thể có những danh tự như sa di và tỳ kheo và v.v... do bởi
lòng ân cần tử tế của đạo sư người ban cho chúng ta những thệ nguyện này. Trong
cùng cách, đó là qua lòng tử tế ân cần của kim cang đạo sư mà chúng ta có thể
tiếp nhận quán đảnh và có cơ hội để thực hành. Quý vị nên quán chiếu trong chi
tiết như vậy.
Cũng thế, điều quan trọng nhất, việc nói về lòng từ bi và tâm bồ đề, vốn kích
thích tâm thức chúng ta rất nhiều, cung cách mà chúng ta đi đến tiếp xúc với những
thể trạng như vậy của tâm là qua đạo sư. Vào lúc sinh ra, chúng ta hoàn toàn
không quen thuộc với những khái niệm như vậy. Những điểm này cũng áp dụng với sự
thấu hiểu về tánh không. Việc phát triển ngay cả chỉ với sự quan tâm đơn thuần
với tánh không là thành quả của lòng ân cần tử tế của đạo sư, chưa nói đến việc
có cơ hội để thực hành những yoga đạo sư như Lama Chopa.
Cho nên, khi quý vị thực hiện sự thực hành này, từ quan điểm của những phẩm chất
thì không có sự khác biệt giữa Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni và vị chủ trì tôn sư của chính quý vị, nhưng có sự khác biệt lớn
trong dạng thức về lòng ân cần tử tế của các ngài; việc suy nghĩ theo những
dòng này, quý vị sẽ có thể tự thuyết phục chính mình về giá trị của đạo sư của
quý vị.
48. Ngay cả chỉ một sợi lông từ những lỗ
chân lông của ngài
Được ca ngợi như một ruộng phước cho chúng ta
Cao hơn những đấng chinh phục trong ba thời khắp mười phương;
Ô lòng từ bi của đấng cứu độ, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thông điệp này là một phản chiếu về sự kiện rằng đạo sư là ruộng phước đức
không thể so sánh đối với cá nhân hành giả. Nó đã được giải thích trong nhiều mật
điển rằng thực hiện sự cúng dường đến vị chủ trì tôn sư của chính mình vượt hơn
việc cúng dường đến vô lượng chư Phật. Quý vị có cơ hội này để tích lũy công đức
vì quý vị có thể thấy đạo sư với đôi mắt phàm của quý vị và lắng nghe sự giảng
dạy của ngài, cho nên quý vị nên cúng dường, lễ lạy phủ phục, và v.v....Mặc dù
những bậc như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Kim Cang Trì và v.v... là rất vĩ đại, và tách biệt khỏi những trình
độ tưởng tượng, chúng ta không có thể tiếp xúc với các ngài nhằm để tích lũy
công đức. Vì qua đạo sư chúng ta cũng có thể được cung ứng cơ hội để cúng dường
đến vô lượng chư Phật và chư Bồ tát, cho nên chúng ta nên xem ngài như một ruộng
phước vô thượng. “Những lỗ chân lông của thân thể ngài” liên hệ đến những thị
giả của đạo sư và cũng như những thú cưng của ngài mà ngài ôm ấp rất thân thiết.
49. Được tô điểm bởi những bánh xe quý
báu và ba thân của Như Lai,
Từ một mạng lưới phức tạp của những hiện tướng, với phương tiện thiện xảo
Ngài thể hiện trong một hình tướng bình thường để hướng dẫn tất cả chúng sanh;
Ô đấng cứu độ từ bi, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thông điệp này quan tâm đến những việc thỉnh cầu đến đạo sư và biểu lộ những phẩm
chất của ngài như thân biểu hiện của một
Đức Phật. Trong luận giải của Kachen Yeshe Gyaltsen “luân xa trang sức
vô tận”,liên hệ đến thân, khẩu, tâm ý của đạo sư. Thân, khẩu, tâm ý của chư Phật,
như những trang sức của chúng sanh; chúng là vô tận trong ý nghĩa rằng chúng
luôn luôn liên hệ trong những hành vi cứu độ những chúng sanh này. Cũng có những
ý nghĩa đặc biệt cho “luân xa trang sức vô tận” khi được giải nghĩa một cách cá
biệt trong mối liên hệ đến thân, khẩu, tâm ý của đạo sư. Nó nói rằng, “Ngài là
biểu hiện thân, khẩu, tâm ý của tất cả chư Phật vốn bao hàm bên ngoài của hiện
tướng bình thường này, và bên trong ngài là biểu hiện luân xa trang sức vô tận,”
vốn cũng hàm ý đến thân, khẩu, tâm ý của chư Phật.
50. Các uẩn, các đại, các giác quan căn bản,
và tay chân của ngài
là trong bản chất của năm Đức Như Lai, và các phối ngẫu của ngài,
Chư Bồ tát, và những bảo vệ phẫn nộ;
Ô tinh hoa của Tam Bảo, đạo sư tối thượng, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thông điệp này nói về những phẩm chất nội tại của đạo sư, giống như được giải
thích trong mạn đà la: rằng những uẩn và những đại và v.v... thật sự là trong bản
chất của những bổn tôn đặc thù – “ngoại tại ngài giả định là một thân tướng
bình tường; nội tại, ngay cả những phần vi tế của thân thể ngài là hiện thân của
Tam Bảo.”
51. Ngài là tinh hoa của mười triệu chu kỳ
mạn đà la
Phát sinh từ hoạt động của sự giác ngộ toàn tri nguyên sơ
Chủ tể trùm khắp của một trăm gia đình Phật, đứng đầu là Kim Cang Trì;
Ô đấng chủ tể hợp nhất nguyên sơ, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Điều này liên hệ đến những phẩm chất bí mật, việc thấy đạo sư như hiện thân của
thân hưởng thụ (báo thân): “Ngài phát sinh như thân hưởng thụ từ sự biểu hiện của
tuệ trí.” “Mười triệu” này đề cập ở đây không nên được hiểu một cách chữ nghĩa,
mà đúng hơn nên được thấy như ý nghĩa của vô số. Giống như chúng ta thấy trong
lời mở đầu của luận lamrim, “Kính lễ Đức
Phật, Hoàng tử của dòng Thích Ca,/ Bậc mà thân thể được sanh ra từ một triệu đạo
đức và hành vi tốt đẹp,” thuật ngữ Sankrit của một “triệu” (kunti) có hai ý
nghĩa.
Chúng ta cũng thấy những dòng tương tự trong bài Lama Jandbod (Kêu Gọi Đạo Sư Từ
Xa):
Bất cứ hình tướng nào mà ngài giả định, một
trăm, năm hay ba dòng truyền thừa [của thân thể cô lập].
Là tất cả các đạo sư;
Và Chủ tể trùm khắp, chính là cội nguồn mà từ đó ngài xuất hiện,
Cũng chính là đạo sư.
Điều này giải thích rằng đạo sư là bậc sáng tạo của tất cả những gia đình Phật
này cũng chính đạo sư mà tất cả những gia đình Phật vi tế này hòa tan vào – do
thế ngài được gọi là Đấng Chủ Tể Tỏa Khắp. Vì ngài là chủ tể đứng đầu của các
gia đình, nên ngài được gọi là Đấng Chủ Tể Tỏa Khắp Tất Cả. “Đấng Chủ Tể Hòa Hợp
Nguyên Sơ” liên hệ đến thể trạng kết quả của sự hợp nhất của thân hưởng thụ
(báo thân). Chỗ này hành giả đang thực hiện những lời cầu nguyện trong khi đang
thấy đạo sư như thân hưởng thụ và quán chiếu trên sự ân cần tử tế của ngài.
52. Không chướng ngại, không tách rời từ
sự hoạt động của niềm hạnh phúc đồng thời,
Bản chất của tất cả mọi thứ, tỏa khắp mọi thứ trong động và tĩnh,
Đức Phổ Hiền, thoát khỏi sự khởi đầu và chấm dứt;
Tâm bồ đề tuyệt đối thật sự, tôi thỉnh cầu đến ngài.
Thi kệ này nói về những phẩm chất chân như của đạo sư, từ quan điểm của việc thấy
ngài như thân thật sự (pháp thân) và quán chiếu trên lòng ân cần tử tế của
ngài. Được giải thích trên thể trạng của phạm vi kết quả hay quả chứng, “không
chướng ngại” liên hệ đến thể trạng vốn là sự biểu hiện của trí tuệ tự phát vốn
thoát khỏi tất cả mọi chướng ngại. Điều này liên hệ đến trí tuệ cứu cánh vốn
không tách rời khỏi tánh không khách quan. Sự giải thích này theo sự bất khả
phân, hay EVAM, của đại lạc và tánh không. Bây giờ để cho sự giải thích theo
EVAM không tách rời của hai chân lý (nhị đế): Nó nói rằng sự bất khả phân của
năng lượng gió và tâm thức là căn bản của tất mọi hiện tượng kể cả trong luân hồi
và niết bàn; nó trùm khắp tất cả và là nguồn cội. Giống như được nói trong
Pancha-krama (Năm Giai Đoạn) của Long Thọ, “Hành giả thấy tất cả mọi hiện tượng
giống như trong không gian của tam muội (thiền định) về bản chất hư vọng.”
Bởi vì nó giữ lại được sự vi tế của nó từ thời vô thỉ, cho nên tâm rất vi tế
này và gió năng lượng được nói là không có bắt đầu và kết thúc. Đây không phải
là một thể trạng của tâm vốn là đôi khi là thô thiển và có lúc là vi tế qua sự
thay đổi của những hoàn cảnh như những tình trạng tinh thần khác, nhưng thay vì
thế nó đã giữ lại phẩm chất vi tế của nó ngay từ thời vô thỉ, và bản chất của
nó không bị xâm nhập bởi nhiễm ô. Như được giải thích trong Uttaratantra (cứu
cánh mật điển), tất cả những nhiễm ô là ngoại lai (khách trần phiền não). Trên
căn bản của tâm rất vi tế này, tất cả chúng sanh đều có trong họ tiềm năng cố hữu
để thành tựu những phẩm chất vô song của Phật Quả chẳng hạn như thập lực (30).
Vì vậy nó được gọi là “toàn thiện” trong Lama Chopa. Ngược lại, những thể trạng
tiêu cực của tâm chẳng hạn như những cảm xúc phiền não có cơ hội để phát sinh
cho đến khi mà những cấp độ thô của tâm thức chẳng hạn như tám mươi phiền não
tâm sở còn hiện diện. Một khi những thứ này rút lui, thì không có cơ hội cho những
tình trạng tiêu cực sinh khởi. Cho nên ý nghĩa của tâm bồ đề cứu kính phải được
thấu hiểu trong dạng thức của sự hợp nhất của hai chân lý (nhị đế), và đạo sư
là sự hiện thân của một sự hợp nhất như vậy.
53. Ngài là đạo sư, ngài là bổn tôn tâm thể,
ngài là dakini và những người bảo vệ;
Từ bây giờ cho đến khi giác ngộ, tôi sẽ không tìm nơi nương tựa nào khác ngoài ngài;
Trong cuộc đời này, thân trung ấm, và tất cả
những kiếp sau, hãy giữ tôi bằng nối kết từ bi của
ngài;
Cứu tôi khỏi nỗi sợ luân hồi
và niết bàn; ban cho mọi thành tựu;
Hãy là người bạn thường trực của tôi và bảo vệ tôi khỏi những điều gây
trở ngại.
Ở đây,
chúng ta đang cầu xin đạo sư với lời cầu nguyện đặc biệt nhất tâm, rằng: Ngài
là đạo sư, vì vậy xin hãy giải thoát tôi khỏi nỗi sợ luân hồi và niết bàn (tức là cực
điểm của sự bình yên biệt lập); ngài là vị bổn tôn thiền định (tâm thể) vì vậy
hãy ban cho tôi những thành tựu mạnh
mẽ; ngài là dakini, vì vậy xin hãy là bạn đồng hành của tôi;
xin hãy giúp tôi trên con đường tu tập,
và vì ngài là hộ pháp, xin hãy bảo vệ tôi khỏi những chướng ngại.
Chúng ta
đang kêu gọi vị đạo sư và nói rằng: Ngài là đạo sư, là vị bổn tôn thiền định,
v.v., và ngoài Ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Chúng ta đang
giao phó bản thân mình hoàn toàn, nói rằng: Dù có chuyện gì xảy ra, tốt hay xấu,
tôi đều giao phó bản thân
mình hoàn toàn cho Ngài. Điều này giống như đóng cọc mà không thay đổi vị trí -
càng đóng nhiều vào cùng một chỗ thì cọc càng cứng. Do đó, có phép ẩn dụ về việc
đóng cọc - nhất tâm, cắt đứt mọi suy nghĩ thứ hai. Mặc dù có thể có ý nghĩa đặc
biệt khi liên hệ với các vị bổn tôn thiền định khác nhau, nhưng bạn nên coi tất
cả các hộ pháp, dakini, v.v. là những biểu hiện của chính vị chủ trì tôn sư (đạo
sư gốc)
của bạn. Bạn không nên có khái niệm rằng có một vị bổn tôn thiền định tách biệt
với đạo sư, một vị hộ pháp tách biệt với vị đạo sư hay các dakini tách biệt với
vị đạo sư. Nếu thuận tiện, bạn nên thực hiện lời cầu nguyện này một cách tập
trung trong khi tưởng tượng chạm vào chân của đạo sư và giao phó bản thân hoàn
toàn. Hãy cầu nguyện theo cách này ba lần.
54. Nhờ đạo đức đã cầu nguyện như vậy ba lần, Từ
nơi thân, khẩu và ý đạo sư của tôi,
Những dòng cam lồ và tia sáng màu trắng, đỏ
và xanh đậm
Tuôn tràn ra từng tia một, rồi tất cả cùng
nhau vào ba nơi của riêng tôi.
Và từng tia một rồi tất cả cùng nhau hấp thụ,
Thanh tẩy bốn chướng ngại, và tôi nhận được bốn
sự trao truyền thuần khiết
Và hạt giống của bốn thân; một bản sao của đạo
sư
Vui vẻ hòa tan vào tôi và ban cho nguồn cảm hứng.
Đây là
việc nhận bốn sự trao quyền (hay quán đảnh) dưới dạng một sự ban phước gia hộ.
Bạn có thể thực hiện việc nhận các lễ quán đảnh theo cách phức tạp hơn. Khi thực
hiện bài thực hành này, hãy tập trung sự chú ý của bạn vào cung điện thiên thể
của bổn tôn thiền định mà bạn chuyên về, và cầu nguyện. Có nhiều phiên bản khác
nhau, cả chi tiết và súc tích, để nhận bốn lễ quán đảnh liên quan đến Lama
Chöpa. Một phiên bản là trước tiên thực hiện lễ cúng dường mandala, sau đó cầu
nguyện, thọ nhận hai lời nguyện, phát khởi tâm thức yoga toàn diện và cuối cùng
là nhập vào mandala. Năm lễ quán đảnh trí tuệ - nước, vương miện, chày kim
cang, chuông và danh - có thể được tưởng tượng là được nhận riêng lẻ hoặc tất cả
cùng nhau. Trong trường hợp sau, ta mời tất cả các bổn tôn quán đảnh cùng một
lúc. Tiếp theo, thực hiện lễ quán đảnh đạo sư kim cang, v.v.
Sau đó,
đọc các chức năng hoàn thiện của lễ quán đảnh bình phổ quát, lễ quán đảnh bí mật,
lễ quán đảnh trí tuệ-kiến thức và lễ quán đảnh từ ngữ.
Tiếp theo, hãy tưởng
tượng một bản sao của Lama Lozang Thubwang Dorje Chang hòa tan vào chính bạn;
thông qua sức mạnh của sự hòa tan này, bạn tan chảy thành ánh sáng từ trên
xuống dưới, cuối cùng hòa tan thành tánh không. Điều này phải được thực hiện
sau khi đã trau dồi hiểu biết về sự hợp nhất tại thời điểm nhận được sự quán
đảnh thứ tư. Khi bạn hòa tan, từ bên trong thể trạng linh quang (ánh sáng trong
suốt) này, bạn sẽ xuất hiện thành một bản thể nguyên sơ, thân hưởng thụ (báo thân)
phù hợp với vị bổn tôn thiền định của bạn.Bạn có thể tưởng tượng rằng bạn thật
sự đang xuất hiện trong thân huyền ảo và quán tưởng thực hiện các thực hành
"pha trộn" (31) của trạng thái tỉnh thức. Cuối cùng, bạn trở
về thân ban đầu, do đó tự hào là thân hóa thân.
Nếu bạn muốn thực hiện
một hình thức rút gọn của thực hành này, hãy tưởng tượng rằng bạn được vị đạo
sư gia hộ và hòa tan vào linh quang (ánh sáng trong suốt). Từ bên trong linh
quang đó, bạn xuất hiện trong thân hưởng thụ nguyên sơ của bồn tôn thiền định
mà bạn đặc biệt chuyên về.
Sau đó, lặp lại tên
mantra. Tại trái tim của bạn và cũng tại trái tim của nhân vật trung tâm của
không gian công đức, hãy quán tưởng các vòng tròn mantra: OM AH HUM ở giữa; sau
đó là vòng tròn mantra OM AH VAJRADHARA SIDDHI HUM, hoặc OM VAJRADHARA HUM
(không có SIDDHI). Chúng được bao quanh bởi OM MUNE MUNE MAHA MUNAYE SVAHA,
hoặc bạn có thể hình dung OM MUNE MUNE MAHA MUNE SHAKYAMUNIYE SVAHA. Bên ngoài
là mantra tên của Lama Tsongkhapa: OM GURU SUMATI KIRTI SIDDHI HUM. Mantra tên
của chủ trì tôn sư (vị thầy gốc) cũng nên được đọc vào thời điểm này.
Cũng tốt khi đọc tất
cả các mantra tên của các vị thầy mà bạn đã nhận được giáo lý trực tiếp. Nếu
bạn biết mantra tên bằng tiếng Phạn, bạn nên đọc; nếu không, chỉ cần chèn tên
vào giữa OM GURU VAJRADHARA và HUM. Không cần phải quay cuồng tìm kiếm tên
tiếng Phạn. Nếu bạn thực hành điều này hàng ngày, nó sẽ giúp bạn làm quen với
số lượng các vị thầy mà bạn có và luôn nhận thức được lòng tốt của họ. Nếu
không, nếu ai đó hỏi bạn có bao nhiêu vị thầy, bạn sẽ không thể trả lời!
Khi bạn đọc câu thơ ca
ngợi Lama Tsongkhapa, hãy quán tưởng một âm tiết MAM ở giữa Lama Lozang Thubwang Dore Chang, và trong
giọt MAM hãy quán tưởng một chữ HUM màu xanh. Hãy quán tưởng các vòng tròn mantra
ở tim Lama Lozang Thubwang Dorje Chang.
Khi bạn đang thực hiện
việc trì tụng mantra và câu kệ ca ngợi, thì việc thực hiện cái gọi là quán
tưởng "phát triển trí tuệ" là rất tốt:
Thông qua thân trí tuệ rộng lớn; và sự sáng tỏ thông qua lời
nói;
Và thông qua kinh điển và thanh kiếm và cả hai,
Cơn mưa những trí tuệ của sự trình bày, tranh luận và sáng tác.
Nếu bạn có thể thực
hiện quán tưởng đó thì rất tốt. Để thực hành tốt, bạn nên hiểu rằng chỉ có thái
độ vị tha là không đủ. Cần phải tăng cường trí tuệ của bạn - điều này ám chỉ
đến trí tuệ chứng ngộ tánh không - bởi vì con đường mà chúng ta đang bước vào
là sự hợp nhất của lòng từ bi và tánh không. Do đó, việc thực hành bồ đề tâm
của bạn phải được kết hợp với trí tuệ chứng ngộ tánh không. Để tăng thêm trí
tuệ này, hãy cầu nguyện với Lama Lozang Thubwang Dorje Chang và quán tưởng cam
lồ chảy xuống từ thân ngài. Hãy giữ nguyên hình dạng của mình như bổn tôn,
nhưng hãy thả lỏng lòng kiêu hãnh. Khi cam lồ, vốn có bản chất là tia sáng, đi
vào cơ thể bạn qua lỗ hổng đỉnh đầu, chúng sẽ thanh lọc mọi tiêu cực và vô minh
của bạn.
Tại thời điểm này, tại
ba phần cơ thể của Lama Tsongkhapa, nơi bạn đã quán tưởng OM AH HUM, bạn có thể
quán tưởng Quán
Thế Âm (Avaloki-teshvara), Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) và, ở tim, Kim Cang Thủ (Vajrapani). Cũng đề cập rằng ta có thể quán tưởng các khía cạnh bên trong,
bên ngoài và bí mật của Quán Thế Âm ở đỉnh đầu, của Văn Thù Sư Lợi ở cổ họng và của Kim Cang Thủ ở tim - điều này giống như một bổn tôn chín hữu thể. Có nhiều
khía cạnh khác nhau của Văn Thù Sư Lợi và quán tưởng về một Văn Thù Sư Lợi chín hữu thể đã được giải thích trong luận giải Kachem Lung
Kurma (Đưa Theo Gió Di Sản Truyền Miệng). Các cam lồ, các nguyên tử của chúng trong
hình dạng của Văn
Thù Sư Lợi, chảy ra từ cơ thể
của Văn
Thù Sư Lợi lấp
đầy cơ thể bạn và thanh lọc những ô nhiễm của bạn và loại bỏ sự vô minh của bạn.
Những tia sáng, tỏa ra khắp mọi hướng, hãy cúng dường chư Phật và Bồ Tát và thu
hút mọi gia hộ của các ngài, đặc biệt là sự thông tuệ bao la, trong phương diện Văn
Thù Sư Lợi với nhiều kích cỡ khác nhau đi vào bạn; hãy tưởng tượng sự thông tuệ
của bạn trở nên ngang bằng với Văn Thù Sư Lợi. Thông qua lời nói, bạn đạt được
trí tuệ trong sáng, và thông qua chủng tự DHI - chủng tự của Văn Thù Sư Lợi -
trí tuệ nhạy bén,
Sự thông
tuệ rộng lớn, hay trí tuệ, liên hệ đến trí tuệ của một góc nhìn rộng rãi bao
gồm nhiều chủ đề; sự thông tuệ trong sáng ám chỉ trí tuệ phân biệt được ngay cả
những khác biệt vi tế nhất; sự thông tuệ nhạy bén ám chỉ trí tuệ có thể thực hiện
những kỳ công này trong thời gian ngắn nhất có thể. Trí tuệ thâm sâu, đạt được
thông qua việc quản tưởng các biểu tượng bàn tay, ám chỉ loại trí tuệ không bao
giờ bị nhầm lẫn bởi ngay cả những chủ đề khó nhất và có thể khám phá các kinh
sách theo cả ý nghĩa rõ ràng và ẩn dụ của chúng.Trí tuệ với những phẩm chất như
vậy giống như những học giả vĩ đại như Gung-tang Rinpoche.
Ở đây, sự
quán tưởng chín vòng để tăng trưởng trí tuệ được giải thích. Chín vòng này là rộng
lớn, rõ ràng, nhanh chóng và sâu sắc; sáng tác, tranh luận và giảng dạy, và sau
đó là hai sự quán tưởng được giải thích trước đó - những sự quán tưởng thanh lọc
tiêu cực và loại bỏ vô minh.
Ngoài ra
còn có nhiều kỹ thuật khác nhau được giải thích để tham gia vào các hoạt động
hòa bình, chẳng hạn như những hoạt động để khắc phục bệnh tật, dựa trên thực
hành này. Các hoạt động tăng cường, ảnh hưởng và hung dữ cũng có thể được thực
hiện. Nếu bạn đang thực hành để kéo dài tuổi thọ, tại trung tâm của Lama Lozang
Thubwang Dorje Chang, bạn có thể quán tưởng một vị bổn tôn như Tara Trắng (Bạch
Độ Mẫu) hoặc Vô Lượng Thọ, tại tim của vị bổn tôn này là các vòng tròn mantra.
Bạn cũng có thể tự phát khởi bản thân thành vị bổn tôn cụ thể đó, thay đổi diện
mạo ngay lập tức và niềm kiêu hãnh thiêng liêng. Sau đó, bằng cách tập trung
vào vòng tròn mantra, bạn có thể thực hiện sự quán tưởng để kéo dài tuổi thọ. Bạn
cũng có thể thực hiện việc này mà không cần quán tưởng Vô Lượng Thọ tại tim của
Lama Lozang Thubwang Dore Chang mà thay vào đó bằng cách tập trung chú ý đến Đức Phật Vô
Lượng Thọ đang ở trong không gian công đức và sau đó thực hiện quán tưởng.
Tương tự như vậy, bạn có thể thực hiện các hoạt động tăng tài sản bằng cách
quán tưởng Đức Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaishravana ) và các vị bổn tôn tài sản
khác. Vì vậy, tất cả các loại hoạt động này có thể được thực hiện trên cơ sở thực
hành "Migtsema" này, những câu kệ ca ngợi của Lama Tsongkhapa.
Khi bạn
quán tưởng Đức Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi và Kim Cang Thủ (Avalokiteshvara,
Manjushri và Vajrapani) ở các bộ phận tương ứng trên cơ thể của Lama
Tsongkhapa, ngài nên được coi là hiện thân của ba vị bổn tôn này. Bạn cũng có
thể tham gia vào các quán tưởng khác nhau với mục đích kép là giúp đỡ chúng
sinh và cúng dường chư Phật. Thực hiện việc trì tụng danh hiệu của tất cả các vị
đạo sư. Sau đó, bạn có thể đọc một câu kệ hồi hướng như sau:
Nhờ hành
động đức hạnh này
Nguyện
con đạt được trạng thái của các bậc thầy và con cái của các ngài
Và dẫn dắt
tất cả chúng sinh không có ngoại lệ
Cũng đạt
đến trạng thái đó.
Một
phiên bản ngắn hơn một chút về việc nhận bốn lễ quán đảnh như sau. Cam lồ chảy
xuống từ cơ thể của Lama Lozang Thubwang Dorje Chang và bạn nhận được lễ quán đảnh
bình; Kim Cang Trì (Vajradhara) nhập vào sự hợp nhất với phối ngẫu, bồ đề tâm
tan chảy và bạn nhận được lễ quán đảnh bí mật; sự chứng ngộ về tính không và trải
nghiệm đại lạc của họ cấu thành lễ quán đảnh trí tuệ-kiến thức; bằng cách suy
ngẫm về ý nghĩa của sự hợp nhất, bạn nhận được từ quán đảnh.
Phiên bản
ngắn nhất có trong hướng dẫn tại đây. Các tia sáng trắng, đỏ và xanh lam và mật
hoa xuất hiện tuần tự từ ba âm tiết ở ba phần của cơ thể bậc thầy và đi vào cơ
thể của chính bạn, thanh lọc những tiêu cực liên quan và bạn nhận được ba lễ
quán đảnh đầu tiên theo đó. Tại thời điểm mà ba tia sáng hòa tan vào bạn cùng
nhau, bạn nhận được sự quán đảnh thứ tư. Tại thời điểm đó, điều quan trọng là
phải suy ngẫm về ý nghĩa của sự hợp nhất. Sau đó, một bản sao của vị đạo sư hòa
tan vào bạn với niềm vui lớn lao.
Nếu bạn
thực hiện phép quán tưởng này mà không thọ giới Bồ tát và giới Mật tông thì giống
như một phước lành, nhưng nếu bạn thực hiện phiên bản phức tạp nhất, thọ cả hai
giới, v.v., thì thật ra nó đóng vai trò như một phép thực hành tự khai tâm. Do
đó, nó có thể khôi phục lại những lời thề và cam kết đã bị phá vỡ, miễn là bạn
đã thực hiện sự xấp xỉ cần thiết của vị bổn tôn, sự tĩnh tâm. Tôi không biết liệu
điều này có đóng vai trò như một phép khai tâm cho người khác hay không, nhưng
đối với phép thực hành của riêng mình thì đây sẽ là một phép tự khai tâm./-
PHỤ GIẢI:
(27) Mười phẩm chất của một vị thầy Đại thừa như được
nêu trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (Mahayana-sutralankara) của
Di Lặc là (1) tự chủ về mặt đạo đức; (2) sự thanh thản, ổn định trong thiền định;
(3) sự an bình tinh thần, có được nhờ trí tuệ; (4) kiến thức nhiều hơn đệ tử;(5)
nhiệt tình trong thực hành; (6) sự học hỏi kinh phong phú; (7) nhận thức thực tế;
(8)
kỹ năng trong nghệ thuật giảng dạy; (9) quan tâm yêu thương đến đệ tử; và(10)
không có cảm giác chán nản khi làm việc cho đệ tử.
(28) Hai
bộ mười nguyên tắc được liệt kê trong Năm mươi bài kệ về lòng sùng mộ đạo sư là
mười nguyên tắc bên ngoài và mười nguyên tắc bên trong. Mười điều đầu tiên là kỹ
năng trong (1) nghệ thuật và thiền định của mandala; (2) sự ổn định của thiền định;
(3) thủ ấn;
(4) nghệ thuật ngồi, chẳng hạn như kim cang tọa (vajrasana);
(5) các tư thế chân khác nhau; (6) trì tụng; (7) nghi lễ đốt lửa; (8)
nghi lễ cúng dường; (9) hoạt động mãnh liệt; và (10) quá trình giải tán hay hòa tan.
Mười
nguyên tắc bên trong là kỹ năng trong (1) đối phó với các chướng ngại thông qua
thiền định về các vòng bảo vệ; (2) chuẩn bị các luân xa thần chú; (3) ban chiếc
bình và các lễ điểm đạo bí mật; (4) ban sự nhận thức trí tuệ và quán đảnh ngôn
ngữ; (5) tách kẻ thù khỏi những người bảo vệ họ; (6) nghi lễ torma; (7) nhiều lần
lặp lại thần chú khác nhau; (😎 các hoạt động khốc liệt; (9) nghi thức
dâng hiến; và (10) nghi thức nhập môn.
(29) Bài
học đầu tiên về tranh luận cơ bản mở đầu bằng một cuộc thảo luận đơn giản về sự
phân chia, phân loại và định nghĩa về màu sắc.
(30) Mười
lực là trí biết về (1) nguồn và phi nguồn; (2) hành động và kết quả của chúng;
(3) sự tập trung, giải thoát thiền định, v.v.; (4) các năng lực cao cấp và
không cao cấp; (5) các loại khuynh hướng; (6) sự phân chia của mười tám thành
phần, v.v.; (7) những con đường dẫn đến mọi hình thức luân hồi và sự an bình
đơn độc; (8)
tưởng nhớ những trạng thái trước đây; (9) cái chết, luân hồi và sinh ra; và
(10) sự ô nhiễm và sự diệt vong của chúng.
31. Thực
hành hòa trộn là một trong những phương pháp chính để đưa cái chết thông thường,
trạng thái trung ấm và tái sinh vào con đường lần lượt là thân chân thật (pháp thân),
thân hưởng thụ (báo thân) và hóa thân. Tổng cộng có chín vòng hòa trộn,
mỗi lần có
ba vòng, trong trạng thái thức, trạng thái mộng và trạng thái ngủ sâu. Để có lời giải thích
chi tiết, xem Linh quang (Tịnh Quang ) Hạnh
Phúc của Geshe Kelsang Gyatso (London: Wisdom Publications, 1982), p. 100.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét