Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TIÊU MÒN SI MÊ

Phần II: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TIÊU MÒN SI MÊ






4

Cảm Nhận Tác Động Của Mối Liên Hệ Hổ Tương


Một đường sáu tấc thì tương đối ngắn hơn một đường tám tấc
Một đường tám tấc thì ngắn hơn một đường mười tấc

-Phương ngôn Tây Tạng-

Nếu quan điềm sai lầm rằng con người và sự vật tồn tại một cách độc lập là nguyên nhân của tất cả những quan điểm và cảm xúc ẩn tàng chướng ngại, thế thì một trong những ý nghĩa chính yếu của việc vượt thắng nhận thức sai lầm là phản chiếu trên sự kiện rằng tất cả những hiện tượng sinh khởi một cách lệ thuộc.  Như Long Thọ Đại Sĩ nói trong Tràng Hoa Quý Báu:

Khi có dài, thì phải có ngắn.
Chúng không hiện hữu qua bản chất tự nhiên của chúng.

Vì điều tương đối này nên tại sao người Phật tử nói rằng tất cả mọi hiện tượng là duyên khởi chứ không là những sự phát sinh độc lập.

Qua sự phản chiếu trên duyên khởi, quý vị sẽ đánh mất lòng tin rằng mọi vật tồn tại trong chính chúng và của chính chúng.  Long Thọ nói:

Sự thấu hiểu qua tồn tại tự tính là nguyên nhân
của tất cả những quan điểm không lành mạnh.
Những cảm xúc phiền não không thể sản sinh mà không có lỗi lầm này
Do thế, khi tính không được thấu hiểu hoàn hảo,
 những quan điểm không lành mạnh và cảm xúc phiền não
được tịnh hóa hoàn toàn.

Qua điều gì mà tính không được thông hiểu?
Nó được hiểu qua việc thấy duyên khởi,
Đức Phật là đấng toàn tri về thực tại, nói
Điều gì được sản sinh một cách lệ thuộc thì không phát sinh một cách cố hữu (không phát sinh do tự tính).

Môn đệ của Long Thọ là Thánh Thiên nói rằng sự thấu hiểu duyên khởi là cần yếu cho việc vượt thắng si mê:

Những cảm xúc phiền não được vượt thắng
Qua việc chiến thắng si mê
Khi duyên khởi được thấy
Si mê không phát sinh.

Duyên khởi liên hệ đến sự kiện rằng tất cả những hiện tượng vô thường – cho dù vật lý, tin thần, hay nếu không thì – hình thành sự tồn tai lệ thuộc trên những nhân duyên nào đấy.  Bất cứ điều gì sinh khởi lệ thuộc trên nhân duyên nào đấy thì không hoạt động một cách riêng biệt dưới năng lực của chính nó.

Thiền quán phản chiếu

1-    Đem đến tâm thức một hiện tượng vô thường như một cái nhà.
2-    Lưu tâm việc hình thành của nó trên việc tùy thuộc trên những nguyên nhân đặc thù: cây gỗ, thợ mộc, v.v…
3-    Hãy xem sự lệ thuộc này có mâu thuẩn với hiện tướng của ngôi nhà giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó không.

DUYÊN KHỞI VÀ THỰC TẠI

Giáo thuyết duyên khởi có thể áp dụng khắp mọi lĩnh vực.  Một lợi ích của việc áp dụng giáo thuyết này là cái nhìn một hoàn cảnh cách này cho chúng ta một bức tranh tổng thể hơn, vì bất cứ hoàn cảnh là gì – tốt hay xấu – nó tùy thuộc vào nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên).  Một sự kiện không ở dưới năng lực của chính nó mà lệ thuộc trên nhiều nguyên nhân và điều kiện hiện diện cũng như nhiều nhân duyên của quá khứ.  Bằng như khác đi, nó không thể đi đến việc hiện hữu.

Khi quý vị suy nghĩ từ quan điểm này, quý vị có thể thấy nhiều hơn về bức tranh tổng thể, và từ nhận thức rộng rãi hơn này, quý vị có thể thấy thực tại của hoàn cảnh, sự liên hệ hổ tương của nó.  Với sự hổ trợ của cái nhìn liên đới này, hành động mà chúng ta thể hiện sẽ thực tế.  Thí dụ chính trị quốc tế chẳng hạn, không có một cái nhìn như thế, một vị lĩnh đạo có thể thấy vấn đề như được tạo nên bởi một con người đơn độc, mà người ấy rồi thì trở thành một mục tiêu dễ dàng.  Nhưng điều ấy không thực tế; vấn đề rộng lớn hơn nhiều.  Bạo động sản sinh một chuỗi phản ứng.  Không có một nhận thức sâu rộng hơn, ngay cả nếu động cơ là chân thành, bất cứ cố gắng nào để quản xuyến tình hình sẽ trở thành không thực tế.  Những hành động thực hiện sẽ không được đặt nền móng một cách vững vàng, bởi vì vắng bóng của một bức tranh tổng thể, của sự hiểu biết mạng lưới của nguyên nhân và điều kiện liên hệ.

Trong lĩnh vực y khoa cũng thế, sẽ không đầy đủ nếu chỉ tập trung trên một nét đặc biệt nào đó. Toàn bộ thân thể cần được quan tâm đến.  Trong y khoa Tây Tạng, sự tiếp cận chẩn đoán liên hệ tổng thể hơn, đưa vào sự nghiên cứu những hệ thống tác động với nhau.  Tương tự như thế, trong kinh tế, nếu quý vị chỉ theo đuổi một lợi ích, quý vị cuối cùng sẽ đi đến phá sản.  Hãy nhìn vào sự khủng hoảng gia tăng ở nhiều quốc gia.  Bằng vào việc lưu tâm tất cả vào quảng cáo thương mãi, thì hành động là trung tính đạo đức (phớt lờ đạo đức), chúng ta nhắm mắt để khai thác, bóc lột.  Khi, như người ta nói ở Trung Hoa, “Chẳng có gì khác nhau cho dù con mèo là trắng hay đen,” kết quả là hằng hà sa số mèo đen – người đạo đức phá sản – và đang tạo nên vô số vấn đề!

Thất bại với cái nhìn vào bức tranh tổng thể có nghĩa là hiện thực bị đánh mất.  Thái độ chỉ tiền bạc thôi là đầy đủ đưa đến những hậu quả không biết trước được.  Tiền bạc là cần thiết một cách chắc chắn; thí dụ, nếu quý vị nghĩ rằng chỉ cần những khóa thiền tập tôn giáo là đủ rồi, thì quý vị sẽ không có gì để mà ăn.  Nhiều nhân tố cần phải được quan tâm đến.  Với một sự tỉnh thức về một bức tranh trọn vẹn hơn, quan điểm của quý vị trở nên hợp lý hơn, và hành động của quý vị trở nên thực tiển hơn, và trong cách này những kết quả có triển vọng có thể đạt đến được.

Trở ngại đứng đầu của những cảm xúc phiền não là chúng làm lu mờ thực tại.  Như Long Thọ nói:

Khi những cảm xúc phiền não và những hoạt động của chúng chấm dứt,
 thì có sự giải thoát.

Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ những nhận thức sai lầm.  Những nhận thức sai lầm ở đây là những mô thức phóng đại của tư tưởng không phù hợp với những thực tế.  Ngay cả nếu một đối tượng – một sự kiện, một con người, hay bất cư một hiện tượng nào khác – có một khía cạnh thuận lợi nhỏ, một khi đối tượng được thấy một cách sai lầm như sự tồn tại hoàn toàn từ chính phía nó, chân chính và đúng thực, sự phóng chiếu tinh thần phóng đại tinh chất của nó vượt xa những gì nó thật sự là, đưa đến kết quả trong tham dục.  Việc xãy ra cũng giống với sân hận và thù ghét; lần này, một nhân tố tiêu cực bị phóng đại, làm cho đối tượng dường như là một trăm phần trăm tiêu cực, kết quả là chìm sâu trong bối rối.  Mới gần đây, một nhà tâm lý trị liệu nói với tôi rằng khi chúng ta phát sinh sân hận, chín mười phần trăm sự xấu xa của đối tượng về niềm giận dữ là qua sự phóng đại của chúng ta.  Điều này rất phù hợp với ý kiến của Đạo Phật về vấn đề những cảm xúc phiền não sinh khởi như thế nào.

Tại thời điểm khi sân hận và tham dục được phát sinh, thực tại không được thấy; đúng hơn, là một sự phóng chiếu tinh thần giả tạo cực kỳ tệ hại hay cực kỳ tốt đẹp được thấy, gợi lên những hành động sai trái và không thực tế.  Toàn bộ điều này có thể được tránh bằng việc thấy bức tranh toàn bộ được mở ra do việc chú ý đến tính duyên khởi của những hiện tượng, mối quan hệ của những nguyên nhân và điều kiện mà từ đấy chúng sinh khởi và từ đấy chúng tồn tại.

Nhìn vào bằng cách này, những bất lợi của cảm xúc phiền não là rõ ràng.  Nếu quý vị muốn có thể nhận thức hoàn cảnh thực sự, quý vị phải tự nguyện từ bỏ sự cam chịu đối những cảm xúc phiền não, vì trong mỗi một lĩnh vực, chúng làm lu mờ sự nhận thức về những sự kiện.  Thí dụ, bị thấy từ nhận thức của tham dục hay sân hận, sự kiện luôn luôn bị lu mờ.

Từ ái và bi mẫn cũng liên hệ những cảm giác mạnh mà có thể làm quý vị khóc với thấu cảm, nhưng chúng không bi xui khiến với phóng đại mà do nhận thức vững chắc về cảnh ngộ của chúng sinh, và sự thích đáng của việc chúng sinh quan tâm cho vấn đề cát tường của họ.  Những cảm giác này dựa trên tuệ giác nhìn sâu vào trong việc chúng sinh khổ đau như thế nào trong vòng lẫn quẩn của tái sinh gọi là “luân hồi”, và chiều sâu của những cảm giác này được thúc đẩy qua tuệ giác nhìn sâu vào trong tính vô thường và tính không , như chúng ta sẽ thảo luận ở chương 22 và 23.  Mặc dù tình thương và lòng trắc ẩn có thể bị tác động bởi những cảm xúc phiền não, nhưng tình thương và lòng trắc ẩn chân thật (tức là từ ái và bi mẫn) thì không bị thành kiến và không bi phóng đại, bởi vì chúng được hình thành trên nhận thức đúng đắn trong mối quan hệ của chúng ta với người khác.  Quan điểm duyên khởi là lợi lạc cao sâu nhất trong việc làm cho quý vị biết đánh giá đúng bức tranh rộng rãi hơn một cách xác thật.

SỰ LỆ THUỘC TRÊN NHỮNG BỘ PHẬN

Duyên khởi cũng liên hệ đến sự kiện rằng tất cả những hiện tượng – vô thường hay thường – tồn tại trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của chính nó.  Mỗi vật đều có những bộ phận.  Thí dụ, một cái bình tồn tại trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó, cho dù chúng ta lưu tâm đến những bộ phận thô, như cái nắp đậy, cái tay cầm, hay khai triển ra những phần vi tế, như những phân tử của nó.  Không có những bộ phận thiết yếu của nó, một cách đơn giả cái bình không thể là cái bình; nó không thể tồn tại trong cách cụ thể, độc lập mà nó dường như thế.

Còn về những hạt nguyên tử là những thành phần xây dựng nên những đối tượng lớn hơn thì sao?  Chúng có thể không có thành phần chứ?  Điều này cũng không thể, vì nếu một hạt bụi trần không có phạm vi không gian, thì nó không thể phối hợp với những hạt bụi trần khác để hình thành một đối tượng lớn hơn.  Những nhà vật lý lượng tử tin rằng ngay cả những phần tử nhỏ nhất cũng có thể chẻ ra thành những phần tử nhỏ hơn nếu chúng ta có thể tạo ra những dụng cụ có đủ khả năng để làm như thế, nhưng ngay cả nếu người ta tìm thấy một thực thể vật lý không thể chia chẻ, nó sẽ vẫn có phạm vi không gian và những phần tử như vậy,  bằng khác đi nó không thể phối hợp với những phần tử khác để hình thành bất cứ vật gì khác lớn hơn.

Thiền Tập Quán Chiếu

1-    Đem đến tâm thức một hiện tượng vô thường, chẳng hạn như một quyển sách.
2-    Quán sát sự hình thành sự biểu hiện của nó trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – những trang sách và bìa sách.
3-    Hãy xem sự lệ thuộc của nó trên những thành phần của nó có mâu thuẩn với sự biểu hiện của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó không.

THẨM TRA Ý THỨC

Ý thức liên hệ trong việc nhìn một cái lọ màu xanh dương là không có những bộ phận hiện hữu trong không gian, vì nó không phải là vật chất [trong cái thấy của con mắt hay nhãn thức], mà nó tồn tại như một sự liên tục của những thời khắc [của hình ảnh trong phim].  Ý thức nhìn vào cái lọ xanh có những thời khắc trước và sau đó trong sự tương tục của nó, và đây là những phần tử của dòng suối ý thức – không kể là nó ngắn như thế nào.

Rồi thì hãy lưu tâm thời khắc ngắn nhất trong một sự tương tục.  Nếu ngay cả thời khắc ngắn nhất không có một sự bắt đầu, đoạn giữa, và kết thúc, nó đã không thể phối hợp với những thời khắc ngắn khác để trở thành một sự tương tục; nó sẽ gần như bằng với thời khắc trước và đến thời khắc sau, trong trường hợp ấy sẽ hoàn toàn không có sự tương tục.

Như Long Thọ nói:

Giống như một thời khắc có sự kết thúc, vì thế nó phải có
Sự bắt đầu và đoạn giữa.
Cũng thế sự bắt đầu, đoạn giữa, và kết thúc
Được phân tích như một thời khắc

Thiền tập quán chiếu

1-    Lưu tâm ý thức chú ý đến một cái lọ xanh dương.
2-    Quán chiếu trên việc nó hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – một vài thời khắc đã cấu thành sự tương tục của nó.
3-    Hãy thấy sự lệ thuộc của nó trên những phần của nó có mâu thuẩn với hiện tướng của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.

THẨM TRA KHÔNG GIAN

Ngay cả không gian cũng có những bộ phận, chẳng hạn như khoảng không phối hợp với những phương hướng đặc thù, chẳng hạn như không gian của phương Đông và không gian của phương Tây, của những đối tượng đặc thù.

Thiền tập quán chiếu

1-    Lưu tâm không gian chung chung.
2-    Quán chiếu trên sự hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó – Đông, Tây, Nam, và Bắc.
3-    Hãy xem sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó có mâu thuẩn với sự hiện diện của nó giống như sự tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.

Cũng thế:

1-    Lưu tâm đến không gian của một cái tách.
2-    Quán chiếu trên sự hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – phẩn nửa trên và phần nửa dưới của cái tách.
3-    Hãy xem sự lệ thuộc trên những phần tư của nó có mâu thuẩn với sự hiện diện của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.






5


Đánh Giá Đúng Luận Lý Duyên Khởi


---------


Vì không có hiện tượng nào
Là không duyên sinh
Nên không có hiện tượng nào là không
Trống rỗng sự tồn tại cố hữu
 (Tất cả các pháp là vô tự tính)

- Căn Bản Trung Quán Luậncủa Long Thọ Được Gọi Là “Tuệ Trí”-


Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử.  Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.  Nếu toàn thể và những bộ phận tồn tại trong cách mà chúng hiện diện đối với quý vị, quý vị phải có thể chỉ ra một tổng thể riêng biệt với những phần tử của nó.  Nhưng quý vị không thể làm như thế.

Có một sự mâu thuẩn giữa cách mà toàn thể và những bộ phận của nó xuất hiện và cách mà chúng thật sự tồn tại, nhưng điều này không có nghĩa là không có những tổng thể, với vì nếu những tổng thể không hiện hữu, quý vị không thể nói về điều gì đấy hiện diện như một phần của bất cứ điều gì.  Kết luận này phải là có những tổng thể nhưng sự tồn tại của chúng được thiết lập trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – chúng không tồn tại một cách độc lập.  Như Căn Bản Trung Quán Luận gọi là “Tuệ Trí” của Long Thọ nói:

Rằng điều gì sinh khởi một cách lệ thuộc
Nó không là một với điều ấy, trên thứ mà nó tùy thuộc
Và cũng không khác một cách cố hữu với nó.
Vì thế, nó không phải không có gì nhưng không tồn tại một cách có tự tính.

LÝ DUYÊN KHỞI HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO

Phụ thuộc hay độc lập: không có cách lựa chọn nào khác.  Khi điều gì là một, thì một cách xác định nó không phải là thứ khác.  Vì phụ thuộc hay độc lập là một sự phân đôi, khi quý vị thấy rằng điều gì đấy không thể là độc lập, hay không biểu hiện dưới năng lực của chính nó, thì không có lựa chọn nào khác mà phải thấy nó là lệ thuộc.  Biểu hiện phụ thuộc là không biểu hiện dưới năng lực của chính nó, [tự nó là trỗng rỗng].  Hãy nhìn dưới cách này:

Một cái bàn phụ thuộc trên những phần tử của nó cho sự tồn tại của nó, vì thế chúng ta gọi sự tập họp những phần tử của nó là vấn đề căn bản mà trên đấy nó được thiết lập.  Khi chúng ta nghiên cứu phân tích để cố gắng tìm kiếm cái bàn này xuất hiện trong tâm thức chúng ta giống như nó tồn tại một cách độc lập, chúng ta phải tìm kiếm nó trong căn bản này – những cái chân, cái mặt bàn, v.v…  Nhưng không  phải điều gì trong những phần tử này là cái bàn như vậy.  Do thế, những thứ này không là cái bàn trở thành cái bàn trong sự lệ thuộc trên tư tưởng; một cái bàn không tồn tại trong tự bản chất của nó.
Từ quan điểm này, cái bàn là điều gì đấy sinh khởi, hay tồn tại một cách phụ thuộc.  Nó phụ thuộc trên những nguyên nhân nào đấy; nó phụ thuộc trên những bộ phận của nó; và nó phụ thuộc trên tư tưởng.  Đây là ba mô thức của lý duyên khởi.  Trong những điều này, một nhân tố quan trọng hơn là tư tưởng đã đặt tên cho đối tượng.

Tồn tại trong sự phụ thuộc trên nhận thức là ý nghĩa vi tế nhất của lý duyên khởi (Ngày nay, những nhà vật lý học khám phá rằng những hiện tượng không tồn tại một cách khách quan trong tự nó và của chính nó mà tồn tại trong phạm vi liên hệ với người quán sát.)  Thí dụ, “cái tôi” của Đạt Lai Lạt Ma phải ở trong vùng này, thân thể của tôi; không có nơi nào khác mà nó có thể được tìm thấy.  Điều này rõ ràng.  Nhưng khi quý vị khảo sát trong vùng này, quý vị không thể tìm thấy một “cái tôi” có thực chất.  Tuy nhiên, Đạt Lai Lạt Ma là một bậc trượng phu, một tu sĩ, một người Tây Tạng, là người có thể nói, uống, ăn, và ngủ.  Điều này đủ để chứng tỏ rằng ông ấy tồn tại, mặc dù không thể tìm thấy được ông ấy.

Điều này có nghĩa là không có điều gì được tìm thấy là “cái tôi”, nhưng sự kiện này không hàm ý rằng “cái tôi” không tồn tại.  Làm sao lại như thế?  Điều ấy thật là ngớ ngẫn.  “Cái tôi” thật tồn tại một cách xác định, nhưng khi nó tồn tại tuy thế lại không thể tìm thấy được, chúng ta phải nói rằng nó sinh khởi trong sự lệ thuộc trên tư tưởng.  Nó không thể được đặt trong bất cứ cách nào khác.

TÍNH KHÔNG KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ KHÔNG CÓ GÌ

Không có câu hỏi rằng con người và sự vật tồn tại; câu hỏi là thế nào, hay trong phương cách gì, mà chúng tồn tại.  Thí dụ khi chúng ta nhận xét về một bông hoa và nghĩ, “Bông  hoa này có một hình dáng đáng yêu, màu sắc dễ thương, và mịn màng biết bao,”dường như giống rằng có điều gì đấy cụ thể sở hữu những phẩm chất này về hình dáng, màu sắc và cấu trúc mịn màng.  Khi chúng ta nhìn vào trong những phẩm chất này, cũng như trên những phần tử của bông hoa, chúng dường như là những phẩm chất hay những bộ phận của bông hoa, chẳng hạn như màu sắc của bông hoa, hành dáng của bông hoa, cuống hoa, và cánh hoa – giống như có một bông hoa sở hữu những phẩm chất hay những bộ phận này.

Tuy thế, nếu bông hoa thật sự tồn tại trong cách mà nó xuất hiện, chúng ta phải có thể nêu lên điều gì đấy riêng lẻ với tất cả những phẩm chất và những bộ phận này mà nó là bông hoa.  Nhưng chúng ta không thể.  Một bông hoa như thế không tìm thấy được trong sự phân tích, hay qua những dụng cụ khoa học khác, mặc dù trước đấy nó dường như thật là cụ thể, thật có thể khám phá được.  Bởi vì bông hoa có những tác động, nó tồn tại một cách thật sự, nhưng khi chúng ta điều tra để tìm kiếm một sự tồn tại của bông hoa phù hợp với những ý tưởng của chúng ta về nó, điều đó là hoàn toàn không thể tìm thấy được.

Điều gì đấy tồn tại một cách thật sự từ chính nó phải trở nên rõ ràng hơn khi được phân tích – nó phải được tìm thấy một cách rõ ràng.  Nhưng ở đây là trường hợp ngược lại.  Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nó không tồn tại, vì nó có ảnh hưởng – nó tạo nên những tác động.  Sự kiện rằng nó không được tìm thấy dưới sự phân tích chỉ để biểu lộ rằng nó không tồn tại với cách mà nó xuất hiện đến những giác quan của chúng ta và đến tư tưởng của chúng ta – đấy là, nó được được thành lập một cách cụ thể trong chính nó.

Nếu không tìm ra những đối tượng khi chúng được phân tích có nghĩa là chúng không tồn tại, sẽ không có chúng sinh, không có Bồ Tát, không có Phật, không có điều gì thanh tịnh, và không có điều gì bất tịnh.  Thì sẽ không cần đến giải thoát; không có lý do gì để thiền quán về tính không.  Tuy thế, rõ ràng con người và sự vật hổ trợ và làm tồn hại, rằng vui sướng và đớn đau hiện hữu, rằng chúng ta có thể giải thoát chính mình khỏi khổ đau và đạt đến hạnh phúc.  Thật là khờ dại khi phủ nhận sự hiện hữu của con người và sự vật khi chúng ta rõ ràng bị ảnh hưởng bởi những thứ ấy.  Ý tưởng rằng con người và sự vật không tồn tại là bị phủ nhận rõ ràng; nó là ngu ngơ.

Học giả - hành giả du già Ấn Độ, Long Thọ Đại Sĩ chứng minh rằng những hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu (không có tự tính) bằng sự kiện rằng chúng là duyên khởi, sự phát sinh tương duyên.  Điều này tự nó là một dấu hiệu rõ ràng cho  quan điểm rằng những hiện tượng không tồn tại một cách cố hữu không phải là hư vô, không phải là không có gì cả.  Ngài không đưa ra lý do tại sao những hiện tượng là trống rỗng mà không thể biểu hiện chức năng; thay vì thế, ngài kêu gọi sự chú ý đến sự kiện rằng chúng sinh khởi phụ thuộc trên những nguyên nhân và điều kiện hay là nhân duyên.

Thiền tập quán chiếu

Lưu tâm:

1-    Phụ thuộc và độc lập là một sự đối kháng phân đôi (nhị nguyên).  Bất cứ điều gì tồn tại thì hoặc là phụ thuộc hay độc lập.
2-    Khi điều gì đấy là phụ thuộc, sự biểu hiện dưới năng lực của tự nó là trống rỗng.
3-    Không có nơi nào trong những phần tử của thân thể và tâm thức hình thành căn bản cho "cái tôi” mà chúng ta có thể tìm thấy “cái tôi”.  Do thế, “cái tôi” được hình thành không phải dưới năng lực của chính nó mà qua năng lực của những điều kiện khác – nguyên nhân của nó, những phần tử của nó, và tư tưởng.







6

Thấy Mối Liên Hệ Tương Duyên Của Mọi Hiện Tượng



---------


Thực chứng giáo lý duyên khởi
Người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan.

-BUDDHA



Bởi vì những hiện tượng dường như, ngay cả đối với những giác quan của chúng ta, tồn tại từ chính chúng, mặc dù chúng không như thế, chúng ta chấp nhận một cách sai lầm quan điểm rằng những hiện tượng hiện hữu một cách cụ thể hơn là chúng thật sự tồn tại.  Trong cách này chúng ta bị đẩy vào những cảm xúc phiền não, tạo nên hạt giống cho sự tàn phá của chính chúng ta.  Chúng ta phải tẩy trừ những rắc rối này bằng việc phản chiếu đi quán chiếu lại, trên tính bản nhiên phụ thuộc của mọi thứ.

TÁC ĐỘNG CỦA DUYÊN KHỞI

Tất cả mọi hiện tượng – hữu ích và tổn hai, nguyên nhân và hậu quả, cái này và cái kia – sinh khởi và được thiết lập trong sự nương tựa trên những nhân tố khác.  Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

Khi điều này trở thành, thì điều kia sinh khởi,
Như có ngắn khi có dài,
Qua sự sinh thành điều này, điều kia được sản xuất.
Giống như ánh sáng từ sự sản sinh của ngọn lửa.

Trong phạm vi này của phụ thuộc, hữu ích và tổn hại sinh khởi, những hiện tượng vô thường có thể biểu hiện chức năng (và không chỉ là điều bịa đặt của sự tưởng tượng), và nghiệp báo – hành động và hậu quả của chúng – là có thể hiện thực được.  Quý vị là khả thi và tôi là khả thi, chúng ta không chỉ là sự sáng tạo tinh thần.  Bằng sự thông hiểu điều này, quý vị tự do khỏi điều mà Phật Giáo gọi là “cực đoan của hư vô”, đưa đến kết luận sai lầm rằng chỉ vì một hiện tượng không thể tìm thấy sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) nên nó hoàn toàn không tồn tại.  Như Long Thọ nói:

Vì thấy rằng những hậu quả sinh khởi
Từ những nguyên nhân, người ta thừa nhận những gì xuất hiện
Trong những quy ước của thế gian (tục đế)
Và không chấp nhận hư vô chủ nghĩa.

Có hai cực đoan – khái niệm cường điệu rằng những hiện tượng (vạn pháp) tồn tại dưới năng lực của chính chúng, và sự phủ nhận nhân quả  (nguyên nhân và kết quả) – giống như những hố thẳm mà trong ấy tâm thức của chúng ta có thể rơi xuống, đấy là sự tạo nên những quan điểm tai hại thổi phồng thể trạng của những đối tượng vượt khỏi tính chất tự nhiên thật sự của chúng hay phủ nhận chính sự tồn tại của nhân quả.   Rơi vào hố thẳm cường điệu, chúng ta bị đẩy vào sự thỏa mãn khái niệm về chính chúng ta mà nó phóng đại chúng ta thật sự như thế nào – một sự bất khả chiến bại.  Hay, rơi vào hố thẳm của sự phủ nhận, chúng ta đánh mất quan kiến về giá trị của đạo đức và bị đẩy vào những hành vi xấu xa mà chúng sẽ phá ngầm tương lai của chính chúng ta.

Để có thể cân bằng đuyên khởi và tính không, chúng ta cần phải phân biệt giữa sự tồn tại cố hữu và sự tồn tại đơn thuần.  Cũng cần yếu để nhận ra vấn đề khác biệt giữa sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) và sự hoàn toàn không tồn tại (hư vô).  Đấy là tại sao khi những đại hiền nhân Phật Giáo ở Ấn Độ dạy về tính không, các ngài đã không sử dụng sự biện luận rằng những hiện tượng là trống không khả năng biểu hiện những chức năng.  Đúng hơn, các ngài nói rằng những hiện tượng là trỗng rỗng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) bởi vì chúng là duyên khởi.  Khi tính không được hiểu trong cách này, cả hai cực đoan được tránh.  Khái niệm cường điệu rằng những hiện tượng tồn tại từ chính chúng được tránh qua sự nhận thức về tính không, và việc phủ nhận sự tồn tại khả năng biểu hiện chức năng được tránh qua việc thấu hiểu rằng những hiện tượng là duyên khởi và vì thế không phải không tồn tại một cách hoàn toàn.

Như Nguyệt Xứng nói:

Luận lý duyên khởi này
Cắt xuyên qua tất cả những mạng lưới của những quan điểm tà kiến.

Duyên khởi là lộ trình cho việc hướng đến xóa sạch hai hố  thẳm của những quan điểm sai lầm và những khổ đau kèm theo chúng.

TÍNH KHÔNG THỂ DIỄN ĐẠT CỦA CHÂN LÝ

Một lần nọ, có một học giả thiếu kinh nghiệm trong một tu học viện ở Lhasa, người đang trong thời điểm khó khăn của tranh luận, không thể đáp trả những thách thức.  Thế là ông ta tuyên bố, đến tất cả mọi người trong tranh luận, rằng ông biết tất cả những câu trả lời nhưng ông ta đang gặp khó khăn để diễn tả bằng ngôn ngữ.  Có thể chúng ta – không biết tính không rõ ràng – có thể chỉ lập lại những lời tuyên bố đã có trong kinh điển Phật Giáo rằng sự toàn thiện của tuệ trí là không thể nhận thức được và không thể diễn tả được và cố gắng mở to mắt đề nhìn sâu tận đáy!  Tuy nhiên, lời tuyên bố này có nghĩa rằng sự thực chứng về tính không là được kinh nghiệm một cách tiếp trong thiền quán bất nhị không thể phát biểu được bằng ngôn ngữ; chứ không có nghĩa là tính không thì không thể phản chiếu được và thiền quán được.

Khi chúng ta nói, nghe, hay nghĩ về những thuật ngữ như tính không hay chân lý cứu kính, chúng hiện khởi với chúng ta trong một chủ thể và đối tượng riêng biệt – tâm thức ở về một phía và tính không ở một phía khác – trái lại trong thiền quán thậm thâm, chủ thể và đối tượng có một nhiệm vụ; tính không và tâm thức nhận thức nó giống như nước đổ vào nước, không khác biệt, không thể phân biệt.

TƯƠNG TỰ VỚI VỌNG TƯỞNG

Sử dụng khí cụ phân tích, quý vị không thể tìm ra một thực thể luân hồi từ đời sống này sang đời sống khác, nhưng điều này không có nghĩa là sự tái sinh hoàn toàn không hiện hữu.  Mặc dù tác nhân, hành động và đối tượng không thể cưỡng lại sự phân tích để đứng vững một cách độc lập, những hành vi lành mạnh và không lành mạnh để lại những dấu vết (hạt giống nghiệp) của chúng trong tâm thức, và những thứ này sẽ đi đến khai hoa kết trái trong kiếp sống này hay trong một đời sống tương lai.

Nếu chúng ta khảo sát một người với luận lý này, người xuất hiện trong một giấc mơ và một người thật sự được thấy khi chúng ta thức dậy, hoàn toàn không có tự ngã cấu thành có thể tìm thấy được trong cả hai người ấy.  Hai người ấy là không thể tìm thấy được một cách bình đẳng dưới sự phân tích như thế, nhưng điều này không có nghĩa rằng không có những con người thật sự hay người trong mộng là một người thật sự.  Sự kiện rằng con người và những đối tượng khác là không thể tìm thấy dưới sự phân tích không có nghĩa rằng những điều ấy không hiện hữu mà rằng chúng không tồn tại trong cung cách bởi năng lực của chính chúng; chúng hiện hữu do bởi những nhân tố khác.  Trong cách này, sự biểu hiện trỗng rỗng dưới năng lực của chính nó đi đến ý nghĩa lệ thuộc trên những thứ khác.

Thiền Quán Phản Chiếu

Quan tâm:

1-    Sự tồn tại cố hữu (tự tính) đã chẳng bao giờ, đang không bao giờ, và sẽ không bao giờ tồn tại.
2-    Tuy thế, chúng ta tưởng tượng rằng nó thật tồn tại và vì thế bị đưa vào trong những cảm xúc buồn lo.
3-    Sự tin tưởng rằng những hiện tượng tồn tại một cách cố hữu là một cực đoan của sự phóng đại, một hố thẳm đáng sợ.
4-    Sự tin tưởng rằng những hiện tượng vô thường (vạn pháp vô thường) không thể biểu hiện chức năng, hay hoạt động như nhân và quả, là một hình thức cực đoan của sự phủ nhận, một hố thẳm đáng sợ khác.
5-    Nhận thức rằng tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu do bởi biểu hiện duyên khởi tránh được cả hai cực đoan.  Nhận ra rằng những hiện thượng là duyên sinh tránh cực đoan phủ nhận nguy hiểm; nhận ra rằng chúng là trống không sự tồn tại cố hữu tránh được cực đoan phóng đại nguy hiểm.










7



Đánh Giá Duyên Khởi Và Tính Không



------------
Tin tưởng nơi những hành động và kết quả của chúng
Trong sự hiểu biết tính không của những hiện tượng
Thật kỳ diệu hơn ngay cả sự kỳ diệu.
Thật phi thường hơn ngay sự phi thường.

-Luận Về Tâm Thức Giác Ngộ Của Long Thọ-

Phản chiếu trên việc một đối tượng duyên sinh như thế nào – sinh khởi phụ thuộc trên nhân và duyên, phụ thuộc trên những bộ phận của nó, và phụ thuộc trên tư tưởng – hổ trợ vô cùng để vượt thắng cảm nhận  rằng đối tượng tồn tại trong nó và của chính nó.  Tuy nhiên, nếu chúng ta không luận ra một cách chính xác những hiện tượng là trống rỗng điều gì – điều gì bị phủ nhận – rồi thì vào lúc kết cuộc của việc phân tích này chúng ta sẽ cảm thấy rằng đối tượng sẽ hoàn toàn không hiện hữu.

Kinh nghiệm này sẽ làm cho những hiện tượng dường như sớm nở tối tàn, giống như những bức họa không có thực chất, kế đến không có gì cả.  Sai lầm này đến từ việc không phân biệt giữa việc vắng mắt sự tồn tại cố hữu và không tồn tại.  Thất bại phân biệt những điều này làm cho không thể đánh giá đúng tính duyên khởi của mọi hiện tượng, trái lại thật thiết yếu để thấu hiểu rằng tính không có nghĩa là duyên khởi, và duyên khởi có nghĩa là tính không.

TÍNH KHẢ THI CỦA NHÂN VÀ QUẢ

Chúng ta cần thiết để có thể nhận thức thấu đáo duyên khởi về toàn bộ mọi tác nhân, hành động, đối tượng như một sự phủ nhận của sự tồn tại cố hữu của chúng và để thấy rằng nguyên nhân và hiệu quả tồn tại một cách rạch ròi.  Quả thực, một đối tượng được chứng minh là trống rỗng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) bằng lý do của sự kiện rằng nó là một sự duyên khởi, vì thế động lực học của duyên khởi, chẳng hạn như nhân và quả, có thể đứng vững được.  Tính không không phải là một sự trống rỗng hoàn toàn (không có gì cả) để phủ nhận sự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng nhưng là một tính không của sự tồn tại cố hữu (tự tính không).  Những hiện tượng là trống rỗng về thể trạng [tự tính] này, nhưng tự chúng không trống rỗng; một cái bàn là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, nhưng nó không trống rỗng trong việc biểu hiện là một cái bàn.  Do thế, qua tính không – qua sự trống vắng của sự tồn tại cố hữu – mọi tác nhân, hành động và đối tượng là khả dĩ.

Trong cách này, thực tế tính không có nghĩa rằng đối tượng phải tồn tại, nhưng nó tồn tại một cách khác biệt từ những gì chúng ta đã tưởng tượng.  Sau khi chúng ta đã nhận ra ý nghĩa của tính không, thì không đủ để chỉ cho rằng mọi hiện tượng phải tồn tại nhưng không có một ý nghĩa rõ ràng về việc chúng tồn tại như thế nào.   Chúng ta cần biết từ trong chiều sâu của chúng ta rằng thấu hiểu duyên khởi thúc đẩy sự thấu hiểu tính không và thấu hiểu tín không thúc đẩy sự thấu hiểu duyên khởi.

LUẬN LÝ TỪ TÍNH KHÔNG ĐẾN DUYÊN KHỞI

Đối với chúng tôi dường như dễ dàng hơn để thấu hiểu tính không bằng lý do của sự kiện rằng con người và sự kiện là duyên khởi hơn là thấu hiểu rằng một đối tượng phải là một sự duyên khởi qua sự kiện rằng nó là trống rỗng sự tồn tại cố hữu.  Nhưng đây là tư duy của chúng tôi.

Trong giả huyển, những sự mâu thuẩn hoàn toàn có thể hiện thực, thí dụ, một người trẻ bổng nhiên già đi, hay ai đấy là ngu ngơ dần dần biến thành một học giả biết rộng.  Trong một thế giới của sự thiết lập cố hữu quy định toàn thể, sự thay đổi triệt để như thế sẽ không thể làm được.  Nếu một cây cổ thụ đã thật sự, về căn bản như nó trong mùa hè, với những đặc trưng như cành lá và hoa trái, thế thì những hoàn cảnh không thể tác động nó và làm cho nó đánh mất những đặc trưng này trong mùa đông.  Nếu sự xinh đẹp của nó là tự phát, nó sẽ không thể biến thành xấu xí do những hoàn cảnh.

Điều gì là sai có thể toàn là thứ ấy, trái lại điều gì là thật phải đúng như nó là.  Khi ngôn ngữ của ai đấy là không đáng tin cậy, chúng ta nói nó là sai.  Sự thật rằng những hiện tượng có một tính tự nhiên của giả dối là điều cho phép thay đổi rất nhiều, chuyển từ tốt sang xấu và xấu sang tốt, phát triển và suy tàn.   Bởi vì con người và sự vật không có tính biểu hiện tự phát chân thật, chúng bị ảnh  hưởng bởi những điều kiện và có thể chuyển hóa.  Bởi vì trẻ trung không phải là một sự thật bất biến, nó có thể biến thành già nua.

Bởi vì những hiện tượng là giả dối trong ý nghĩa này, chúng sẳn sàng thay đổi một cách lập tức: những vùng đầy ấp con người và rồi dân số mất đi; những xứ sở hòa bình bắt đầu đánh nhau với những cuộc chiến; những quốc gia hình thành và biến mất.  Tốt và xấu, sinh trưởng và tàn lụi, luân hồi và niết bàn, cách này và cách kia; thay đổi xãy ra trong rất nhiều cách.  Sự kiện con người và những hiện tượng thay đổi biểu thị rằng chúng không thật sự có những thể trạng riêng biệt của chúng như chúng là; chúng không thể tự thiết lập.  Bởi vì chúng không có căn bản, nên chúng có thể chuyển biến. 

Đây là nhân và quả là có thể hiện thực như thế nào trong tính không của sự tồn tại cố hữu (vô tự tính).  Nếu những hiện tượng thật sự tồn tại tự trong bản chất của chúng, chúng không thể lệ thuộc trên những nhân tố khác.  Không có sự phụ thuộc trên những thứ khác, nhân và quả là không thể [hiện thực].  Với nhân và quả, những tác động không thuận lợi như đớn đau, có thể tránh được bằng việc từ bỏ những nguyên nhân nào đấy, như ganh tỵ, và những ảnh hưởng thuận lợi, như hạnh phúc, có thể đạt được bằng việc rèn luyện trong những nguyên nhân khác, như tùy hỷ trong sự thành công của kẻ khác.

NHẬN THỨC RÕ SỰ HỔ TRỢ LẪN NHAU

Hãy nhớ, đáng để một bên lý thuyết tính không với thời gian hiện hữu nếu nó đe dọa tới sự hiểu biết nhân và quả.  Nhận thức về tính không phải bao hàm nhân và quả của những hành động.  Nếu chúng ta nghĩ rằng do vì những hiện tượng là rỗng không cho nên không thể có bất cứ tốt hay xấu gì, đấy là chúng ta đang làm khó khăn hơn để nhận thức nội dung của tính không.  Chúng ta cần đánh giá đúng nhân và quả.

Những Đối Tượng Đặc Biệt của Thiền Quán

Đôi khi thật hữu ích để đem một người mà chúng ta quan tâm cao độ như đối tượng của loại phân tích này – thí dụ, vị thầy tôn kính hay vị lĩnh đạo tâm linh của quý vị.  Trong ánh sáng của những thời khắc ấy nhất là khi quý vị quý trọng vị thầy tâm linh của mình, chúng ta sẽ không rơi vào việc phủ nhận nhân và quả, vì chúng ta không thể phủ nhận tác động của người ấy.

Tính không là cực kỳ quan trọng, do vì nếu chúng ta thông hiểu thấu đáo, chúng ta có thể được giải thoát khỏi vòng lưu chuyển của những cảm xúc tàn phá và qua việc không thấu hiểu tính không, chúng ta sẽ bị lôi đi, như bị xỏ mũi, vào trong những cảm xúc tàn phá, mà những thứ ấy gây ra khổ đau từ đời này sang đời khác trong vòng sinh tử luân hồi.  Tuy nhiên, khi chúng ta lưu tâm rằng tính không của chiếc xe hơi tùy thuộc trên chiếc xe, rằng cơ sở của tính không là một phẩm chất dường như quan trọng hơn tự chính tính không.

Trong cách này, đôi khi nếu chúng ta đặt sự nhấn mạnh trên sự xuất hiện là trống rỗng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) và lúc khác đặt sự nhấn mạnh trên tính không của sự tồn tại cố hữu của nó, chuyển biến từ lần này đến lần khác hơn là chỉ tập trung trên tính không,  có thể rất lợi ích.  Sự quán chiếu thay đổi như thế hổ trợ chắc chắn cả duyên khởi lẫn tính không, cho thấy rằng tính không phải biểu hiện tự chính nó, không phải biệt lập, nhưng là chính tính tự nhiên của những hiện tượng.  Như Bát Nhã Tâm Kinh nói, “Sắc chính thực là không; không chính thực là sắc.”

Sự thiếu vắng tự nhiên của sắc về sự tồn tại cố hữu là tính không; tính không không là điều gì đấy thêm vào, giống như chiếc nón trên đỉnh đầu.  Tính không là tính tự nhiên, đặc tính tối hậu của tự chính sắc.  Bậc hiền nhân Tây Tạng, Tông Khách Ba đã trích một đoạn từ phẩm Ca Diếp trong kinh Bảo Tích “Tính không không làm các pháp trống rỗng:  các pháp tự chúng là trống rỗng.”  Khi chúng tôi ở Ladakh một năm hay hơn trước đây.  Chúng tôi đã thấy một đoạn tương tự trong Kinh Bát Nhã Nhị Thập Ngũ Thiên Tụng:  “Sắc không được làm trống rỗng bởi tính không; sắc tự nó là tính không.”  Chúng tôi được thúc đẩy để phản chiếu trên tuyên bố thậm thâm này, và chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị điều tôi đã tìm thấy.  Nó có hơi phức tạp một chút, vì thế xin hãy kiên nhẫn với chúng tôi.

Trước tiên nhất, nó không thể phủ nhận rằng những đối tượng xuất hiện tồn tại từ chính phía chúng, và ngay cả trong Phật Giáo, hầu hết các trường phái chấp nhận sự xuất hiện này của mọi vật, nói rằng nếu những đối tượng, chẳng hạn như những cái bàn, cái ghế, và thân thể không tồn tại trong chính bản chất của nó, thì không có cách nào để thừa nhận rằng chúng tồn tại.  Thí dụ, họ nói rằng nhãn thức cảm thấy một cái bàn là có căn cứ trong dạng thức của sự xuất hiện của nó được thiết lập một cách thật sự, và phù hợp với  những hệ thống ấy, không có cách nào mà ý thức có thể cùng có căn cứ lẫn sai lầm.  Tuy nhiên, theo hệ thống trường phái Trung Đạo của Nguyệt Xứng, gọi là trường phái Hệ Quả, mà chúng tôi nghĩ là sự diễn tả thậm thâm nhất về việc những  hiện tượng tồn tại như  thế nào và chúng được nhận thức như thế nào, những hiện tượng như những cái bàn, cái ghế, và thân thể chỉ đơn giản không tồn tại trong chính bản chất của nó:  cái thấy của mắt (nhãn thức) là sai lầm về việc những đối tượng xuất hiện như thế nào, giống như chúng được thiết lập trong chính chúng và tự chính chúng, nhưng cũng ý thức ấy là có căn cứ với mối quan hệ đến sự hiện diện của những đối tượng.  Trong cách này,  ý thức có thể cả có giá trị lẫn sai lầm cùng một lúc – có giá trị đến mối quan hệ với sự hiện diện của đối tượng và sự tồn tại của nó nhưng sai lầm trong sự kiện rằng đối tượng dường như có vị thế độc lập của chính nó.

Nguyệt Xứng thừa nhận rằng những đối tượng xuất hiện để tồn tại từ phía chính chúng qua một khuôn mẫu sai lầm của nhận thức thông thường.  Sự thật, không có gì được thiết lập từ phía chính chúng.  Trong cách này, tự chính sắc là trống rỗng; nó không phải được làm trống rỗng bởi tính không.  Nó là gì mà trống rỗng?  Chính tự  sắc.  Chính tự cái bàn.  Chính tự thân thể.  Trong cùng cách này, tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng về sự tồn tại cố hữu, hay tất cả các pháp là vô tự tính.  Tính không không phải là điều gì đấy được làm nên bởi tâm thức; đây là mọi vật đã từng như thế nào từ sự khởi đầu.  Hiện tướng và tính không hoàn toàn là một, và không thể bị phân biệt thành những thực thể riêng biệt.

Thiền quán phản chiếu

Quan tâm đến;

1-    Bởi vì con người và sự vật duyên sinh, nên cả thảy là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, tất cả là vô tự tính.  Là lệ thuộc, chúng không tự thành lập.
2-    Bởi vì con người và sự vật là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, nên tất cả phải là duyên sinh.  Nếu những hiện tượng đã thật tồn tại trong chính bản chất của chúng, chúng không thể lệ thuộc trên những nhân tố khác, hoặc là những nguyên nhân, những bộ phận của chính chúng, hoặc là tư tưởng.  Vì những hiện tượng không thể tự thiết lập, nên chúng có thể chuyển hóa.
3-    Hai nhận thức rõ ràng này phải làm việc với nhau, điều này giúp cho điều kia sâu sắc hơn. (Tính Không và Duyên Khởi)

Làm phong phú cho sự thực tập

Thấu hiểu lý duyên khởi sẽ làm sâu sắc sự phân tích của chúng ta rằng “cái tôi” và những thứ khác không phải là giống nhau hay riêng biệt khỏi những căn cứ mà trên ấy chúng được thiết lập.  Nó cũng sẽ động viên chúng ta dấn thân với nổ lực to lớn trong những sự thực tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, và tinh tấn, trái tim của điều ấy là từ ái và bi mẫn.  Những điều này lần lượt sẽ làm nổi bật năng lực của chúng ta cho tuệ giác nội quán.  Tất cả những thứ này phải làm việc với nhau.

Tất cả chúng ta đều có tâm thức có khả năng nhận biết, do thế, nếu chúng ta làm việc với nó, cuối cùng tuệ trí có thể đạt được.  Vì điều này, chúng ta cần phải đọc, nghe những thuyết giảng, và nghiên cứu học hỏi, Vì chúng ta được phú cho với tâm thức và vì tính không là một đối tượng có thể được mang đến tâm thức,  thế nên nổ lực của chúng ta sẽ gặt hái những kết quả.





 Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét