Nguyên tác: Namkapel / Attitude-Training Like the Rays of the Sun
Luận giải: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Dharamsala, India, May 9 – 15, 1985
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - Sunday, January 04, 2015
PHẦN 2: BỐN TƯ TƯỞNG CHUYỂN TÂM ĐẾN PHẬT PHÁP
1- Tái Khẳng Định
Động Cơ
Chúng
ta cần có một động cơ thích đáng cho việc lắng nghe giáo huấn; bằng khác đi
chúng ta sẽ mất một cơ hội để xây dựng một năng lực tích cực lớn là phước đức
và hòa nhập giáo huấn này vào trong sự tương tục tinh thần của chúng ta. Chúng
ta không cố gắng để được động viên bởi việc muốn mọi việc cải thiện trong kiếp
sống này, hay để cải thiện những kiếp sống tương lai của chúng ta hay ngay cả bằng
việc muốn đạt đến giải thoát chỉ riêng cho chúng ta. Đúng hơn, chúng ta cố gắng
đề có một động cơ toàn triệt của xu hướng
tâm giác ngộ - tâm bồ đề - bodhichitta,
nguyện ước đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Hãy nghĩ,
"Tôi không lắng nghe điều này chỉ cho lợi ích riêng tôi hay cho sự giải
thoát riêng tôi. Tôi đang mở rộng trái tim tôi đến tất cả chúng sanh của một
nguyện ước làm lợi ích họ và để đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của họ." Và,
"Tôi chắc chắn sẽ cố gắng để hòa nhập tất cả những giáo huấn này với sự
tương tục tinh thần của tôi và để nhận ra tất cả những tình trạng chưa được thuần
hóa của tâm thức mà tôi có. Dần dần, tôi sẽ điều chỉnh tất cả những điều này tối
đa như có thể."
Nếu
chúng ta nghĩ về những giáo huấn này chỉ đơn thuần như lý thuyết suông, chúng sẽ
không có nhiều lợi ích. Thay vì thế, chúng ta so sánh chúng với những thể trạng
của tâm thức và thái độ của chúng ta, và nghĩ, "Tôi chắc chắn sẽ cải thiện
chính tôi; tôi thật sự sẽ cố gắng để nhận ra những khuyết điểm của tôi nằm đâu
và tự chuyên tâm để tu sửa chúng," điều này chắc chắn sẽ lợi ích rất lớn
và là một kinh nghiệm sâu sắc hơn.
2- Cấu Trúc Căn
Bản Của Luận Điển
Việc
rèn luyện các thái độ của chúng ta trong 7 điểm, thứ nhất liên hệ đến những sự
thực tập chuẩn bị. Trong người Tây Tạng, chúng ta có thuật ngữ "cấu trúc hổ
trợ" và "những thứ được nó hổ trợ". Nó giống như một căn nhà với
đồ đạc và người ở bên trong. Giống như thế, trong một mạn đà la, cung điện mạn
đà la là cấu trúc hổ trợ và những nhân vật bên trong là những gì được nó hổ trợ.
Ở đây, những sự chuẩn bị giống như cung điện mạn đà la và giáo huấn chính giống
như những vị bổn tôn được hổ trợ bởi những sự chuẩn bị. Cho nên đừng nghĩ rằng
những sự chuẩn bị chỉ là điều gì đó khởi đầu, là những thứ chúng ta có thể rồi
thì quên lãng sau này. Chúng là nền tảng hổ trợ tất cả giáo huấn thật sự và
luôn luôn hiện hữu ở đấy. Ở đây, giáo huấn chính yếu thật sự là việc phát triển
tâm giác ngộ. Đây là điểm thứ hai trong 7 điểm.
Có
tâm giác ngộ quy ước (tâm giác ngộ tương đối) và tâm giác ngộ cứu kính (tâm
giác ngộ sâu sắc nhất). Tâm giác ngộ quy ước là một tâm thức hay trái tim hướng
vào sự thật quy ước (thế đế) của tất cả chúng sanh và Giác Ngộ; trong khi tâm
giác ngộ cứu kính là một tâm thức ở sự thật sâu nhất, lẽ thật cứu kính, là tánh
không của chúng hay sự vắng mặt hoàn toàn của những cung cách tồn tại không thể
có (hoàn toàn không có cách thể hiện có). Đây là hai thể trạng tinh thần và
thái độ đối với đời sống mà chúng ta chắc chắn sẽ phát triển trong sự tương tục
tinh thần của chúng ta.
Khi chúng ta thực tập hai tâm giác ngộ này suốt đời
sống của chúng ta, chúng ta sẽ gặp những hoàn cảnh khác nhau, đôi khi có lợi lắm
lúc thì không. Nếu chúng ta không lòng can đảm, rồi thì khi chúng ta gặp những
hoàn cảnh không có lợi, chúng ta có thể chán nản và nghĩ đến việc bỏ cuộc. Vào
lúc ấy, thật cần thiết để có những tâm thức và trái tim thật vững vàng và ổn định,
vì thế chúng ta có thể đối phó với hoàn cảnh. Chúng ta cần nghĩ và cảm nhận,
"À, những hoàn cảnh tệ hại như những thứ này xảy ra trong đời sống. Mong đợi
gì ở cõi luân hồi sanh tử? Nhưng ta có thể đối diện với chúng. Chúng không là vấn
đề lớn, không là hiểm họa lớn." Nếu tâm thức chúng ta ổn định như thế, thì
chúng ta có thể đối phó với bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào hiện hữu. Chúng ta
không bao giờ mất bình tĩnh. Nếu chúng ta lấy tất cả những hoàn cảnh tiêu cực
và không lợi lạc này và hướng chúng vào con đường tu tập, chúng có thể trở
thành một bộ phận của con đường tâm linh của chúng ta. Rồi thì, dĩ nhiên, không
có nguy hiểm nào từ chúng; chúng không thể làm tổn hại chúng ta và chúng ta trở
nên rất ổn định trong sự thực tập của chúng ta. Đây là một phương pháp cực kỳ lợi
lạc và phổ biến.
5 điều trong 7 điểm khác là:
1. Chuyển hóa những hoàn cảnh bất hạnh thành con đường đến Giác Ngộ,
2. Cô đọng lại sự thực tập trong một kiếp sống,
3. Lượng định thái độ rèn luyện của chúng ta,
4. Những thực tập liên kết gần gũi cho thái độ rèn luyện,
5. Những điểm tu tập trong thái độ rèn luyện.
Với điều này, chúng ta đi đến luận điển gốc của 7 Điểm Rèn Luyện Tâm Thức. Như một cấu
trúc căn bản cho giáo huấn rèn luyện tâm thức này, và như một bộ phận của những
sự chuẩn bị, chúng ta trước nhất đối diện với sự tái sanh quý giá của con người,
rồi thì sự chết và vô thường, liên quan nhân và quả, và rồi thì những vấn nạn
và khổ đau của luân hồi. Đây là 4 điểm của những sự chuẩn bị hình thành căn bản
hổ trợ cho việc rèn luyện các thái độ của chúng ta. Chúng thông thường được biết
đến như "4 tư tưởng chuyển tâm đến Phật Pháp."
Một
luận điển về thái độ rèn luyện tâm của Panchen Yeshey-gyeltsen trình bày những
sự chuẩn bị trong cách của phái Kadam, thảo luận về khổ đau trong những tình trạng
tái sanh tệ hại nhất và rồi thì, tư duy về chúng, quy y hay chọn phương hướng
an toàn trong đời sống. Trong cách này, phương hướng an toàn được xem như một bộ
phận của thảo luận về những tình trạng khác nhau của tái sanh. Bằng những
phương pháp khác nhau chẳng hạn như điều này, chúng ta có thể bao gồm tất cả những
giáo huấn con đường tiệm tiến lamrim trên những giai tầng của con đường tu tập
trong bố cục của bốn sự chuẩn bị này.
Có
vài sự trình bày và những cách để xếp đặt những điểm của con đường tiệm tiến
lamrim. Tôi nghĩ rằng tất cả tùy thuộc trên sự bố trí đa dạng của các môn đệ.
Thí dụ, trong Ba Điểm Chính Yếu
của Con Đường tu tập,
Tông Khách Ba trình bày hai trình độ của viễn ly: tuyệt đối quay lưng hoàn toàn
sự liên hệ với kiếp sống này và rồi tuyệt đối quay lưng hoàn toàn sự liên hệ với
những lợi ích của kiếp sau. Tuy nhiên, trong đại luận con đường tiệm tiến
Lamrim, Tông Khách Ba trình bày 3 trình độ của động cơ, một trong số đó là sự
viễn ly, và không nói đến 2 trình độ của viễn ly.
Vì
thế, mặc dù trong một số tư tưởng của lamrim về khổ đau của những tình trạng
tái sanh tệ hại nhất đưa chúng ta lập tức đến quy y - chọn phương hướng an
toàn, ở đây khi chúng ta nghĩ về những điểm khác nhau, chúng ta được đưa một
cách trực tiếp đến tâm giác ngộ. Chúng ta nghĩ về sự tái sanh loài người quý
giá và điều ấy đưa thẳng chúng ta đến tâm giác ngộ. Rồi thì chúng ta nói về sự
chết và vô thường và những thứ này cũng đưa chúng ta thẳng đến việc phát triển
tâm giác ngộ. Sự trình bày của tất cả những sự khổ đau đủ thứ trong phổ quát và
những thứ khổ đặc thù của những cảnh giới khác nhau cũng có thể đưa chúng ta đến
việc thực chứng tâm giác ngộ. Đây là một cách đặc biệt trong việc trình bày những
điểm lamrim khác nhau trong những luận điển về thái độ rèn luyện tâm thức.
Bố
cục liên hệ để thực hành trong buổi thiền tập và giữa các buổi thiền tập. Điều
này có nghĩa là chúng ta không phải chỉ dấn thân trong việc thực hành Phật Pháp
khi ngồi tréo chân và trì tụng đủ thứ lời cầu nguyện và rồi lúc ngơi nghĩ quên
lãng và quẳng nó đi. Chúng ta thật kéo dài sự thực hành cả trong những buổi thiền
tập nghi thức và trong thời gian bình thường.
Nó
giống như nạp điện vào bình. Khi thật sự ngồi thiền trong những thời khóa,
chúng ta làm cho tâm thức, trái tim và thái độ của chúng ta trong sáng hơn và mạnh
mẽ hơn vì thế chúng ta có thể sử dụng chúng sau này, giống như chúng ta nạp điện
vào bình cho nên chúng ta có thể dùng đến về sau. Và giống như có lúc chúng ta
nạp điện vào bình và lúc sau này chúng ta sử dụng điện lực, có những lúc chúng
ta thực hiện những buổi thiền tập nghi thức, tích lũy việc nạp năng lượng điện,
và rồi thì chúng ta sử dụng nó trong ngày thường. Không phải chúng ta tu tập
trong những buổi hành thiền và rồi hành độngnhư hoàn toàn không tu tập gì cả
lúc bình thường; chúng ta cần trước sau như một. Chúng ta cần cố gắng để đem
tâm thức chúng ta, trong tất cả mọi trình độ khác nhau, để xử sự phù hợp với
giáo huấn.
Dĩ
nhiên, mọi người muốn hạnh phúc và mọi người cố gắng để theo những phương pháp
khác nhau để đem hạnh phúc đến. Và dĩ nhiên, mọi người cần những nhu cầu khác
nhau trong đời sống. Nhưng, khi chúng ta cố gắng để đem hạnh phúc đến qua những
phương pháp phóng túng và như vậy sẽ làm tổn hại người khác, hay chúng ta cố gắng
để lợi dụng người khác, đây chính là những thứ chúng ta đang cố gắng để chấm dứt
và xa lìa. Chúng ta cần nghĩ về mọi thứ khác nhau mà chúng ta đang làm. Nếu
chúng ta đang rất kiêu kỳ và bóc lột người khác, và lừa dối người nhằm để đạt
được một lợi ích nào đó cho chính chúng ta, chúng ta cần nghĩ, "À, lợi ích
thật sự của việc này về lâu về dài là gì? Có phải nó sẽ mang đến hạnh phúc cho
tôi như tôi muốn? Nếu tôi có được lợi ích này bằng việc lường gạt và lừa dối
người khác, nó sẽ thật sự giúp ích tôi về lâu về dài không?" Trong cách
này trở thành thuyết phục: "Nếu tôi sử dụng phương pháp không lương thiện
như thế này, nó sẽ hoạt động chống lại tôi. Đây là bởi vì nếu người ta hành động
thật kiêu căng, cố gắng để lợi dụng người khác, mọi người sẽ xem họ thuộc loại
người rất thô bỉ. Không ai muốn về phía họ hay sẽ đồng ý với những gì họ đang
làm." Điều này rất rõ ràng, có phải không? Do thế, chúng ta có thể thấy những
bất lợi ở đấy trong việc là một người lường gạt, lừa dối.
Sau
khi chúng ta kết thúc những thời khóa và chúng ta đi ra ngoài gặp gở mọi người, chúng ta có thể có một sự thúc
đẩy để hành động một cách kiêu hảnh hay lừa dối. Thế thì chúng ta cần chính niệm
về những gì chúng ta đang suy nghĩ đến trong thời khóa tu tập, và nghĩ "Ô,
không! Nếu tôi hành động trong một cách lừa dối đối với người này và cố gắng đề
lường gạt người ấy, tôi đã thấy trong những thời khóa thiền tập rằng điều này
không tốt. Nó không làm lợi gì cho bất cứ ai," và vì thế chúng ta kềm chế
chính mình. Vào lúc ấy, khi chúng ta kềm chế mình khỏi hành vi trong một cách
tiêu cực hay tàn phá: đấy là những gì thật sự thực hành giữa những thời khóa. Đấy
là khi chúng ta thật sự sử dụng những thói quen tốt mà chúng ta đã xây dựng
trong những thời khóa thiền tập. Nếu chúng ta hành động thật cẩn thận và hòa nhập
việc hành thiền và giữa những thời khóa tốt với mọi người, rồi thì chúng ta sẽ
thấy rằng việc hành thiền sẽ phục vụ cho việc cải thiện thái độ của chúng ta giữa
những thời khóa, và những hành vi của chúng ta giữa các buổi tu tập sẽ cống hiến
cho việc cải thiện việc hành thiền của chúng ta. Ngày qua ngày, chúng ta sẽ thấy
một sự cải thiện nào đó.
Chúng
ta cần thẩm tra thái độ của chúng ta. Nếu chúng ta uống rượu hay hút thuốc,
chúng ta cần cố gắng để cải thiện chính chúng ta và từ bỏ những hành vi tiêu cực
này, đấy cũng là tự tàn phá. Bất cứ khi nào chúng ta thấy một điếu thuốc, nếu
chúng ta nghĩ về những bất lợi của nó,
chúng ta sẽ bỏ nó qua một bên. Chúng ta sẽ quyết định chỉ bỏ một hay hai điếu
thuốc một ngày và cuối cùng đi đến một điểm, từ việc hút thuốc ít dần đi, chúng
ta sẽ trở thành ghê tởm ngay cả bởi mùi thuốc lá. Nếu chúng ta nghĩ về điều
này, hút thuốc là lãng phí tiền bạc và thời gian vô cùng. Tất cả tiền bạc chúng
ta dành cho nó và thời gian lãng phí để nói về nó, hay khi chúng ta gặp gở ai đấy
hút thuốc, châm mồi thuốc với người và tán gẫu - hãy nghĩ việc ấy lãng phí như
thế nào. Ở tại mọi trình độ, thói quen hút thuốc là vô nghĩa.
Uống
rượu cũng giống như vậy, cũng như tất cả những loại đặc trưng cá nhân đáng ghét
mà chúng ta có thể có, chẳng hạn như kiêu căng, tự mãn, hay lừa dối. Hãy cố gắng
để giảm thiểu chúng tối đa và cuối cùng từ bỏ chúng bằng việc thấy chúng như những
thói quen tiêu cực.
3- Trình Tự Trước
Khi Bắt Đầu Thời Khóa Thiền Tập
Vào
lúc bắt đầu một thời khóa thiền tập thật sự, thật rất quan trọng là thẩm tra động
cơ của chúng ta về vấn đề tại sao chúng ta hành thiền. Chúng ta cần tái khẳng định
sự quy y, chọn phương hướng an toàn mà chúng ta đang thực hiện trong đời sống,
như được hướng dẫn bởi chư Phật, giáo Pháp và Tăng già, chúng ta cần tái khẳng
định xu hướng tâm giác ngộ (bodhichitta) của chúng ta. Chúng ta làm điều này
trong khi quán tưởng đối tượng của quy y và v.v…, phù hợp với dòng truyền thừa
của Lạt ma Serlingpa. Thế nên, trước nhất chúng ta thẩm tra và tái khẳng định động
cơ của chúng ta, và rồi thì, trong một nơi thích hợp cho thiền tập, chúng ta
chuẩn bị chỗ ngồi thiền.
a- Làm Vệ Sinh Nơi Hành Thiền
Trước
nhất, chúng ta cần làm vệ sinh nơi chúng ta sẽ hành thiền. Điều này làm một sự
khác biệt lớn trong sự sáng tỏ của tâm thức chúng ta, trình độ của sự tôn kính
chúng ta cảm nhận và chứng tỏ đến những đối tượng của việc hành thiền, và nó
cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Thật rất quant trọng để giữ nhà cửa
và phòng ốc chúng ta sạch sẽ, và xếp đặt sự cúng dường. Khi chúng ta quét và
làm sạch, nhiều tư tưởng có thể hổ trợ, chẳng hạn như, "Trong khi tôi đang
làm sạch sàn nhà này, tôi làm sạch tâm thức tôi." Chúng ta không cần phải
nghĩ rằng chúng ta chỉ đang làm nó dễ thương cho chính chúng ta, mà chúng ta
đang làm việc ấy để biểu lộ sự tôn kính đến những đối tượng quy y và thực hành.
b-Thiết Lập Một Bàn Thờ Và Xếp Đặt Sự Cúng Dường
Khi
chúng ta thiết lập bàn thờ và những sự cúng dường, chúng ta không đang làm để
người khác ấn tượng, mà để giúp cho tiến trình cải thiện chính chúng ta nhằm để
làm lợi ích tất cả chúng sanh, đặc biệt tất cả những chúng sanh năng lực giới hạn.
Chúng cần có những bàn thờ khiêm tốn, với sự hiện diện của thân thể, lời nói,
và tâm thức của chư Phật. Nếu chúng ta có những chén bát cúng dường bằng vàng
và bạc, rồi thì tâm thức chúng ta phân nửa sẽ ở trên giá trị của những đối tượng
quý giá này, và chỉ phân nửa ở trong sự thực hành.
Có
một câu chuyện nổi tiếng của Geshe Benkungyel, người sống trong một hang động
để hành thiền. Một lần khi thầy của ngài đến thăm, ngài dâng cúng rất đặc biệt.
Rồi thì ngài thẩm tra động cơ của ngài và thấy rằng ngài chỉ làm điều này để mọi
người nói ngài là một hành giả lớn lao như thế nào. Nhận ra điều này, ngài ném
tro vung vãi khắp các vật cúng dường của
ngài. Khi thầy ngài đến, ngài nói rằng Geshe Benkungyel đã ném tro
tàn trên tám pháp thế gian trong đời sống và đã thực hiện một sự cúng dường rất
trong sạch.
Trước
khi trở thành một hành giả Phật Pháp lớn, Geshe Benkungyel là một tên ăn
trộm vô danh. Sau khi trở thành một hành giả, một ngày nọ ngài đến một nhà thí
chủ bảo trợ, người đã thiết lập những sự cúng dường nào đó và ra bên ngoài. Do
bởi bản năng như một tên trộm, Geshe Benkungyel thấy tay mình vươn ra để
ăn trộm vật phẩm. Ngài lập tức nắm lấy tay mình và kêu lên, "Đến nhanh
lên, tôi vừa bắt một tên trộm."
Đây
chính xác là vấn đề chúng ta cần thực hành Phật Pháp như thế nào. Khi chúng ta
nhận thấy mình phát khởi một xu hướng tiêu cực, chúng ta cần tự bắt lấy mình và
dừng hành vi lại trong cách ấy. Vấn đề chính của Phật Pháp là việc xử sự ngăn
ngừa chính mình và ngay khi chúng ta thấy
chính mình bắt đầu làm việc gì đấy mà chúng ta biết là không thích đáng, chúng
ta tự dừng lại đừng làm việc ấy. Do vậy nếu quý vị có thể nhớ, "Đức Thánh
Thiện đã từng nói trong khóa tu này đừng làm những thứ như thế này," rồi
thì khi quý vị tự nhận ra mình làm việc ấy, thì quý vị có thể tự dừng lại.
Giống
như thí dụ về uống rượu, nó là nguồn gốc tạo ra rất nhiều rắc rối, mặc dù dĩ
nhiên nó rất tuyệt. Nếu chúng ta nghĩ, "Tôi không cần quan tâm,"
chúng ta trở thành chai cứng và xây đắp nên một thói quen của những việc làm
tiêu cực và bị nhạy cảm. Đây là vì khi chúng ta say rượu, chúng ta hành động
trong một cách mà chúng ta thậm chí không thể tỉnh thức về những gì chúng ta
đang làm. Rồi thì sau đó, khi người ta nói, "Ô, khi bạn say rượu, bạn nói
năng thật tệ hại, buông ra những lời lăng mạ dối trá, và hành động trong một
thái độ xúc phạm, và bây giờ bạn ngay cả không nhớ bất cứ điều gì," thật cực
kỳ hổ thẹn. Chúng ta làm một điều cực kỳ ngu dại khi chúng ta say rượu.
Vấn
đề chính của Phật Pháp là đưa ra những biện
pháp ngăn ngừa và ngay khi chúng ta thấy mình bắt đầu làm điều gì đó sai lạc
hay không thích đáng, chúng ta cần dừng lại hay tự ngăn ngừa mình khỏi làm việc
ấy. Chúng ta cần áp dụng mọi thứ chúng ta biết, như thí dụ rất liên hệ về Geshe
Benkungyel. Sự thực hành Phật Pháp của ngài là rất rõ ràng và minh bạch: ngài
có thể lập tức và hoàn toàn dừng lại đột ngột để khỏi hành động trong bất cứ
cung cách tiêu cực nào.
Vấn
đề chính trong Phật Pháp là luôn luôn hành động để cải thiện những phẩm chất nội
tại, chứ không phải sự cải thiện bên ngoài. Cho nên, liên quan đến những sự
cúng dường, những phẩm vật không cần phải quá ấn tượng bên ngoài để làm chúng
ta tự hào về chúng. Milarepa đã làm những sự cúng dường tuyệt vời nhất: ngài
không có bất cứ thứ gì bên ngoài để dâng cúng, mà ngài hoàn toàn dâng hiến trái
tim của ngài cho sự thực hành Phật Pháp.
Chúng
ta không cần làm theo cách chúng ta để thiết lập những bàn thờ phô trương, bằng
cách mua sắm những hình tượng rất mắc tiền; như vậy là hoàn toàn sai lạc vấn đề.
Phật Pháp là để cải thiện tâm thức chúng ta, không phải để phô trương bên
ngoài. Nếu chúng ta có đủ thứ hình tượng một cách tự nhiên qua quà tặng và
v.v…, dĩ nhiên chúng ta có thể chưng bày lên. Cúng dường càng chu đáo, lợi ích
càng thâm thúy. Nhưng chúng ta không phô bày cách của mình để làm một sự khoe
khoang để làm mọi người ấn tượng - một cách đặc biệt với những tranh thangka
Tây Tạng, chỉ có chúng như kỷ niệm để làm mọi người ấn tượng. Tuy nhiên, nếu
chúng ta mua tranh thangka, hãy cố gắng để có những sự cân đối thích đáng và những
bổn tôn căn bản. Nếu chúng ta mua thứ gì đấy không phù hợp với truyền thống, rồi
thì nếu người nào đấy nhìn vào và nói, "Hình tượng Đức Phật này thật tệ,"
thì chúng ta đang xây đắp năng lượng và năng lực tiêu cực do bởi tác động của
những lời như vậy. Thế nên chúng ta cần thật tường tận để có những thangka và
hình tượng đúng đắn và truyền thống. Nhưng chúng không phải chỉ có chúng để làm
người khác ấn tượng. Nếu những sự chuẩn bị và xếp đặt của chúng ta là thật giản
dị, thì chúng ta có thể chỉ đặt một hình ảnh vị đạo sư tâm linh của chúng ta.
Như vậy sẽ làm cho tâm thức chúng ta cảm thấy rất hạnh phúc và chúng ta sẽ biểu
lộ sự tôn kính.
c- Tọa Thiền Với Tư Thế Thích Đáng
Rồi
thì chúng ta cần ngồi trong một tư thế thích đáng. Nếu chúng ta có thể ngồi kiểu
hoa sen kiết già hay tư thế kim cương, là tốt nhất. Nhưng nếu điều này không
thoải mái, chúng ta có thể ngồi xếp bằng, cách thông thường mà chúng ta hầu hết
ngồi như vậy. Nếu cũng không thoải mái thì chúng ta có thể ngồi trên ghế. Vấn đề
chính là hoạt động của tâm thức, không nhất thiết ở thân thể chúng ta. Nhưng nếu
chúng ta có thể ngồi xếp bằng là tốt hơn.
Đừng
nhướng tới nhướng lui hay dựa trái dựa phải; mà tốt hơn nên ngồi thẳng và vững
chắc. Dĩ nhiên, nếu chúng ta không cảm thấy yên ổn, thì có những ngoại lệ;
nhưng một cách căn bản chúng ta cần ngồi thẳng và không nhúc nhích trạo cử. Một
cách đặc biệt khi chúng ta thực tập thế này, chúng ta cần ngồi thật thẳng và
không lay động. Nếu chúng ta lay động, nhướng tới nhướng lui và trong khi chúng
ta tập trung, sự dao động của thân thể sẽ làm tâm thức chúng ta dao động và
tinh thần chúng ta sẽ lang thang hơn. Thường thường chúng ta thấy rằng khi
chúng ta trì tụng kinh chú thuộc lòng, chúng ta nghiêng tới nghiêng lui. Hầu hết
người Tây Tạng làm việc này, nhưng không trừ chúng ta. Chúng ta thấy nhiều người
Hồi Giáo cũng giống thế này khi họ đọc tụng kinh Koran. Khi người ngoại quốc đến
và thấy người Tây Tạng trì tụng, họ cảm thấy kỳ lạ, bởi vì một số lúc lắc tới
lui, trong khi một số thì nghiêng qua nghiêng lại.
Khoảng
15 năm trước có một gheshe, là một nhà đại du già vốn sống những vùng núi non Tây Tạng. Khi ông đến Ấn Độ, ông thỉnh
cầu tôi ban cho một số lễ khai tâm. Tôi cực kỳ ấn tượng: ông không chuyển động
một chút nào trong toàn lễ truyền lực. Nếu chúng ta có khả năng, chúng ta cần
có loại tư thế như vậy. Nó đến từ sức mạnh của thiền tập trung - đại định.
Nếu
chúng ta mang kính, chúng ta có thể xem xét lại chính mình đế thấy nó có làm
nên một sự khác biệt nào không để mang kính hay không trong lúc thiền tập. Nếu
tôi mang kính của tôi, tôi cảm thấy sáng sủa vô cùng; nhưng nếu lấy kính ra,
tôi có một sự ổn định và phóng trí trong tâm thức tôi. Hãy nhìn vào thứ này và
thấy điều khác biệt gì nó làm nên.
d- Quy Y Và Tái Khẳng Định Động Cơ Của Chúng Ta
Tiếp
theo, chúng ta cần thẩm tra những thể trạng của tâm thức chúng ta, và từ một thể
trạng tích cực đặc thù của tâm thức, phát tâm quy y mạnh mẽ tức là theo phương
hướng an toàn và tái khẳng định mục tiêu tâm giác ngộ của chúng ta. Hãy nghĩ,
"Tôi nguyện theo một phương hướng mạnh mẽ an toàn trong đời sống của tôi,
với sự quy y. Tôi dâng hiến trái tim tôi cho mục tiêu của tâm giác ngộ, để được
Giác Ngộ, để hổ trợ tất cả chúng sanh, và tôi sẽ thực tập điều này để xây dựng
nên một năng lực tích cực mạnh mẽ để đạt đến mục tiêu ấy."
Vì
thật hữu ích để có một loại hổ trợ trực quan, chúng ta quán tưởng những đối tượng
của quy y, chúng có thể là một lãnh vực tế nhị, phong phú (hình tướng tam bảo),
hay chỉ đơn giản là một hình tượng của Đức Phật, và hãy tưởng tượng rằng chúng
ta đang tiếp nhận những làn sóng truyền cảm hứng từ các ngài. Một sự hổ trợ trực
quan được thực hiện để tiếp nhận những sự truyền cảm hứng hổ trợ sinh động để tạo
nên một cảm giác mạnh mẽ.
Sự
quy y hay phương hướng an toàn thật sự biểu thị bằng sự chấm dứt thật sự (diệt
đế) và con đường thật sự của tâm thức (đạo đế) trên sự tương tục tinh thần của
các tôn giả, các bậc thực chứng cao độ. Cho dù chúng ta có thể quán tưởng một
cách rõ ràng hay không lãnh vực phong phú của tâm, thì chúng ta cũng giữ trong
tâm những gì là các thứ chính cung cấp một sự quy y hay phương hướng an toàn
trong đời sống: sự chấm dứt thật sự, và con đường thật sự của tâm thức (diệt đế
và đạo đế). Chúng ta có thể quán tưởng nhiều lãnh vực phong phú cho việc xây dựng
nên phước đức (năng lực tích cực), nhưng vấn đề chính là để có một cảm nhận thật
mạnh mẽ về việc có một phương hướng an toàn (sự quy y) đang diễn tiến; không chỉ
nói bằng từ ngữ, mà có một sự tự tin mạnh mẽ trong những gì là lẽ thật. Những sự
kiện mà trong Ba Ngôi Tôn Quý biểu thị phương hướng an toàn nhất trong đời sống
và chúng ta hoàn toàn hướng tới để tiếp tục đi tới phương hướng ấy.
Ở
Tây Tạng, chúng ta đi theo một sự phối hợp của Tiểu Thừa, Đại Thừa Hiển Giáo,
và Mật Giáo. Trong dạng thức của Mật thừa, khi chúng ta chọn phương hướng an
toàn (quy y), chúng ta cần nghĩ rằng chúng ta cũng tiếp nhận toàn bộ những sự
truyền lực từ những đối tượng của phương hướng an toàn (Ba Ngôi Tôn Quý). Đó là
tại sao chúng ta bắt đầu nghi thức quy y với: "Tôi quy y với lạt ma, với đạo
sư." Đây là bởi vì chúng ta tưởng tượng chúng ta đang tiếp nhận sự truyền
năng lực từ các ngài.
Các
vị thầy tâm linh của chúng ta là những vị thật sự nắm tay ta, ôm ấp ta, và dẫn
chúng ta trên con đường trong phương hướng an toàn và vững vàng được biểu thị bằng
Ba Ngôi Tôn Quý. Cho nên, chúng ta bắt đầu với vị thầy tâm linh với ngài chúng
ta thật sự có một mối liên hệ cá nhân và ngài chỉ cho chúng ta phương hướng an
toàn của quy y, và sau đó quy y với Phật, Pháp, và Tăng. Rồi thì để phân biệt sự
thực hành của chúng ta như Đại Thừa, chúng ta tái khẳng định mục tiêu của tâm
giác ngộ.
Vậy
thì chúng ta bắt đầu với sự quy y (phương hướng an toàn), tiếp theo là xu hướng
tâm giác ngộ, và rồi quán tưởng lãnh vực phong phú và cúng dường 7 điều quán nguyện:
lễ phủ phục, cúng dường, và v.v… Có nhiều cách khác nhau của việc thực hành sự
cầu nguyện này trong mối liên kết với sự thực hành kinh điển và trong mối liên
hệ với sự thực hành mật tông. Chúng ta cũng có thể hiến dâng 7 điều quán nguyện
trong mối quan hệ với nhiều loại bổn tôn du già và nhiều hình tướng Phật
(deities, yidams). Truyền thống Gelugpa, thí dụ, cúng dường trong phạm vi của
100 bổn tôn của Đâu suất thiên, mà trong ấy nhân vật chính để quán tưởng là
Tông Khách Ba.
Mặt
khác, chúng ta có thể quán tưởng một cách đơn giản vị thầy tâm linh của chính
chúng ta hay Đức Phật, hay chúng ta có thể thực hành trong phạm vi của một
trong 6 yogas: có nhiều cách để thực hiện nó. Một số câu kệ được sử dụng trong
7 điều quán nguyện đến từ kinh điển đối diện với thái độ của Bồ tát, một cách đặc
biệt từ kinh Hoa Nghiêm. Bất cứ điều quán nguyện nào trong 7 điều quán nguyện
mà chúng ta sử dụng, thì chúng ta cần thiết lập tâm thức chúng ta một cách rõ
ràng trên những điểm khác nhau và trên nghĩa lý của chúng là gì, và rồi kết
thúc với một cầu nguyện hồi hướng. Đây là trình tự mà Lạt ma Serlingpa, thầy của
Atisha, đã dạy.
Sau
đó chúng ta thực hiện nhiều thỉnh cầu để có thể hướng tâm chúng ta vào giáo
Pháp, để có thể chuyển mọi thứ vào con đường của Phật Pháp, và rằng chúng ta sẽ
thật sự có thể đem mọi thứ vào thực hành.
f- Cúng Dường Mạn
Đà La
Về
việc trình bày thế giới mà chúng ta cúng dường như một mạn đà la, gồm có Núi Tu
di, 4 châu và v.v…, như trong kinh điển Ấn Giáo. Tôi nhớ lại trong một cuộc
hành hương ở Ấn Độ, tôi đã đi ngang một ngôi đền Ấn Giáo. Tôi không nhớ chính
xác ở đâu, nhưng nó có một bức tranh tường của Núi Tu di và 4 châu, rất giống
như những gì chúng ta có. Thế nên chúng ta cúng dường những vật trước mắt chúng
ta, đối tượng cúng dường và tưởng tượng những thứ như Núi Tu di, các châu và v.v…, và cũng cúng dường
tất cả: không cần thiết phải có một mạn đà la chi tiết. Tuy nhiên, sự quán tưởng
không phải hoàn toàn như cách trong luận A Tỳ Đạt Ma. Nó có thể giống như một
thế giới thật sự.
Chúng
ta không thể phủ nhận thế giới như hình tròn. Đây là điều gì đó chúng ta có thể
tự thấy: chúng ta có thể thật sự thấy đường cong của trái đất. Cách mà thế giới
được diễn tả ngày nay được khẳng định bởi nhận thức của chúng ta; nó thật sự được
thấy bằng mắt. Nếu chúng ta phủ nhận điều này và hàm ý thế giới chính xác như
được nói trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakosha), thì sẽ vô lý,
có phải không? Cho nên những gì chúng ta liên hệ ở đây không phủ nhận quá nhiều
sự trình bày của khoa học hay sự phủ nhận việc trình bày thế giới trong A Tỳ Đạt
Ma Câu Xá Luận. Việc cúng dường thế giới trong khía cạnh rực rở và huy hoàng nhất
của nó, để dâng cúng điều gì đấy rất hoan hỉ, để xây dựng nên một năng lực tích
cực nào đó và một thể trạng xây dựng của tâm thức. Chúng ta cần giữ thái độ ấy
trong tâm khi dâng cúng lên một hệ thống thế giới như mạn đà la. Vì vị thầy tâm
linh của chúng ta và hàng nghìn, hàng triệu chư Phật được biết như lãnh vực vĩ
đại hay đặc biệt xuất sắc phong phú nhất cho việc xây dựng nên năng lực tích cực,
cho nên chúng ta cúng dường mạn đà la cho các ngài.
4- Một Mối Quan
Hệ Lành Mạnh Với Một Vị Thầy Tâm Linh
Điều
này đưa đến một mối quan hệ lành mạnh và chí nguyện toàn tâm toàn ý đến vị thầy
tâm linh của chúng ta (guru-devotion), những thuận lợi của một chí nguyện như
thế, và những bất lợi tương phản với việc này.
Trong
chính kiếp sống này, nếu chúng ta muốn học
hỏi về vấn đề thêu hay vẽ những bức tranh Phật, chúng ta cần học từ người nào đấy
mà chúng a có thể nhìn làm việc này vì thế chúng ta có thể đi theo thí dụ ấy và
cố gắng tự làm. Chúng ta cần một vị thầy. Điều này cũng đúng trong sự rèn luyện
tâm linh. Thật cực kỳ quan trọng để nương tựa vào một vị thầy, một vị cố vấn
tâm linh, trong một cung cách lành mạnh hơn, với một chí nguyện toàn tâm toàn ý
với vị ấy. Để làm điều này, chúng ta cần hành thiền một cách sâu xa nhằm để
phát triển một niềm tin và kỳ vọng cực kỳ mãnh liệt vào vị hướng dẫn tâm linh của
chúng ta. Việc phát triển niềm tin và kỳ vọng ấy có thể ở trong mối quan hệ hoặc
là phía phương tiện hay phía tuệ quán của sự thực hành. Nếu chúng ta phát triển
nó trong mối quan hệ của phía tuệ quán (sự tỉnh thức phân biệt), thế thì chúng
ta cần thẩm tra nhiều lý do đa dạng cho
việc cần thiết phát triển niềm tin vững vàng của sự kỳ vọng và tín nhiệm vào vị
ấy.
Nếu
chúng ta đã có sự tự tin vào kỳ vọng và tín nhiệm vị hướng dẫn tâm linh, thì
chúng ta mới có thể đạt được truyền cảm hứng từ vị ấy. Nếu không, thì bất chấp sự
nhấn mạnh bao nhiêu mà chúng ta đặt vào tuệ giản trạch phân biệt, thì chúng ta
cũng sẽ không đạt được bất cứ sự truyền cảm hứng nào để phát triển nó. Bất cứ
những phẩm chất và đức tính nào mà vị hướng dẫn tâm linh có thể có, nếu chúng
ta không có sự kiên định và tin tưởng vững vàng rằng vị ấy trong thực tế có được,
thì chúng ta không có được sự truyền cảm hứng từ vị ấy. Bất chấp chúng ta cúng
dường bao nhiêu đi nữa hay chúng ta có thể thực hiện hay cầu nguyện bao nhiêu
đi nữa mà chúng ta biểu lộ đến vị ấy, trái tim của chúng ta sẽ không nâng cao
hay xúc động.
Trước
tiên là những phẩm chất của vị hướng dẫn tâm linh. Chúng ta cần biết những điều
này thật rõ ràng nhằm để kiểm tra chúng. Đâu là những phẩm chất của thân thể, lời
nói, và tâm thức của vị ấy, những thành tựu của vị ấy, vị ấy có thông tuệ chứ?
Vị ấy thực hành những gì? Những vị hướng dẫn tâm linh không phải chỉ tự vươn
lên. Nghĩ rằng những vị hướng dẫn tâm linh là tự sinh là sai. Không vị nào
thông tuệ từ lúc sinh ra.
Một
vị hóa thân (tulku) không nhất thiết là một lạt ma, và một lạt ma không nhất
thiết là một vị hóa thân. Không có sự tương nhập hợp lý giữa hai vị này.
"Lạt", âm đầu của chữ "lạt ma", người Tây Tạng chuyển dịch
từ Phạn ngữ guru, đạo sư, vị hướng dẫn tâm linh, có nghĩa là "cao thượng",
"ưu việt", hay "uy nghi" như trong châm ngôn
“lana-meypa", có nghĩa "không có gì cao hơn - vô thượng" hay
"không có gì uy nghi hơn". Nó có nghĩa là ai đấy có những thực chứng
rất cao và rộng, một vị thầy siêu việt, một vị nào đó với những phẩm chất lớn
lao, không chỉ là người nào đó mập béo nặng ký! Một vị lạt ma là người nào đó với
những phương tiện và phẩm chất thiện xảo sâu rộng, không chỉ là người nào đó với
một cái tên hay danh hiệu lớn.
Những
phẩm chất của vị hướng dẫn tâm linh cần phải được hoàn toàn, cả trong dạng thức
của vị ấy về kiến thức kinh điển và sự thực chứng thật sự của vị ấy. Một vị đạo sư cần có cả hai, và nhất định không phải
là người nào đó dễ bị tức giận, ngay cả nếu vị ấy biết kinh luận rất rõ ràng.
Chúng ta cần người nào đó có tất cả những phẩm chất và tri thức tốt đẹp, người
sống phù hợp với giáo huấn, và người có thể giải thích chúng một cách rõ ràng đến
người khác.
Giáo
lý con đường tiệm tiến lamrim nói, "Một vị hướng dẫn tâm linh là vị nào đó
nguyên tắc, với một tâm thức tĩnh lặng, an trú và tuệ giác sâu lắng, có những
phẩm chất siêu việt, nhiệt tình, biết nhiều giáo huấn, thấu hiểu đầy đủ về tánh
không, thiện xảo trong việc giải thích, từ ái, và kiên nhẫn." Giống như thế,
những đệ tử cần có một sự thích thú chân thành trong việc học hỏi và một sự
quan tâm chân thành trong việc tự cải thiện chính họ. Luận điển nói đừng dạy
giáo Pháp cho những ai không quan tâm chân thành hay những ai chỉ có tính tò mò
của óc thông minh.
Chúng
ta cố gắng để hoàn thành bổn tôn du già hay guru -yoga. "Yoga" có
nghĩa là hợp nhất với "điều thật sự". Nói cách khác, chúng ta muốn hợp
nhất thân thể, lời nói và tâm ý chúng ta với những phẩm chất tốt đẹp của thân
thể, lời nói và tâm thức của vị hướng dẫn tâm linh và của những vị đạo sư tâm
linh của dòng truyền thừa của vị ấy, đấy là "điều thật sự". Chúng ta
thực hiện lời cầu thỉnh để có thể phát triển những sự thực chứng, tuệ giác và sự
biến thành hiện thực cùng loại như vị hướng dẫn tâm linh của chúng ta. Đấy là
những gì gọi là guru-yoga, hay bổn tôn du già, sự hợp nhất chính chúng ta với
'điều thật sự' như được trình bày bởi đạo sư.
Nhằm
để thâm nhập hoàn toàn vào sự thực hành này, chúng ta cần quán chiếu trên những
lợi ích của việc nương tựa vào một vị hướng dẫn tâm linh xứng đáng trong một
cung cách lành mạnh, với sự tin tưởng và chí nguyện, và những bất lợi của việc
không có nó hay đánh mất hay đánh rơi nó.
Rồi
thì chúng ta cần nghĩ về những gì có thể là những cung cách trong mối quan hệ
và việc nương tựa vào một vị hướng dẫn tâm linh trong một cung cách lành mạnh,
với một chí nguyện toàn tâm toàn ý? Điều
này sẽ ở trong dạng thức của tâm thức hay thái độ của chúng ta đối với vị ấy,
và cung cách thái độ của chúng ta, hành động của chúng ta. Trong dạng thức của
tâm thức và thái độ, chúng ta cần có một niềm tin vững vàng rằng vị hướng dẫn
tâm linh của chúng ta là một Đức Phật, trong khi biết ý nghĩa thật sự ấy, và rồi
duy trì sự chính niệm vào sự ân cần của vị ấy, với lòng biết ơn và cảm kích sâu
xa. Trong dạng thức của hành động, điều
căn bản là đem vào thực hành một cách chính xác bất cứ điều gì vị hướng dẫn tâm
linh của chúng ta khuyên bảo; và rồi thì biểu lộ sự tôn trọng và hổ trợ vị ấy.
Như Milarepa nói, "Tôi không có đồ dâng cúng vật chất để cúng dường vị hướng
dẫn tâm linh của tôi, nhưng tôi có thể biểu lộ sự cảm kích vào sự ân cần của
ngài bằng chí nguyện của chính tôi để thực hành một cách chính xác những gì
ngài nói." Một vị đạo sư Đại Thừa là người nào đó không thích với sự cúng dường
bằng vật chất, mà là sự cúng dường bằng sự thực hành chân thành của người đệ tử.
Khi
chúng ta nói về việc thực hành một cách chính xác như sự dạy bảo của vị hướng dẫn
tâm linh, thì chúng ta đang nói về một vị hướng dẫn tuyệt đối, hoàn toàn, đầy đủ
phẩm chất. Nhưng sẽ khó khăn nếu tìm được một người nào đấy tuyệt đối, hoàn
toàn, đầy đủ phẩm chất; thế nên, như được nói trong giáo lý, đừng nhìn vào người
ấy; hãy nhìn vào những gì vị ấy nói. Vị hướng dẫn tâm linh có thể là một người
nào đó không có quá nhiều sự thực chứng hay không là những vị uy đức như vậy;
nhưng chúng ta cần thẩm tra những gì vị ấy nói, và để thấy nó có đầy đủ ý nghĩa
không.
Chúng
ta cần kiểm tra những giảng dạy của vị ấy và thử nghiệm đạo phong và phẩm chất
của vị ấy. Không tốt để chấp nhận một vị thầy tâm linh như vị hướng dẫn của
chúng ta, và rồi thì thấy vị ấy có những khuyết điểm và phạm phải những lỗi lầm,
vì thế sau này chúng ta trở mặt với vị ấy do bởi những khiếm khuyết này. Điều ấy
thật là một hoàn cảnh đau lòng và bất hạnh. Chúng ta cần thẩm tra một cách thật
cẩn thận ngay từ lúc đầu, như được nói trong giáo huấn trươc khi nương tựa vào
vị nào đấy.
5- Tâm Thức Vô
Thỉ
Sau
những sự chuẩn bị này, sau đó trong những thời khóa thiền tập, luận điển nói rằng
chúng ta cần phản chiếu, từ thời vô thỉ, chúng ta đã từng ở dưới năng lực và
tác động của tâm thức chúng ta và tâm thức chúng ta đã từng ở dưới năng lực và
tác động của những cảm xúc và thái độ phiền não.
Khi
những giáo huấn khác nhau nói "từ thời vô thỉ", chúng có nghĩa gì? Những
hệ thống khác nói về đấng tạo hóa thế giới trình bày một sự bắt đầu, sự sáng thế.
Ở đây, mọi thứ không được trình bày như có một sự bắt đầu tuyệt đối. Cho nên
"từ thời vô thỉ" có nghĩa là từ những sự tái sanh tiền kiếp vô hạn.
Có
một đứa bé gái ba tuổi ở bang Punjab, nhớ lại một cách chính xác nhiều chi tiết
trong kiếp trước của bé: gia đình của bé, những gì xảy ra, và v.v… Có nhiều trường
hợp khác về thiếu nhi có những ký ức hay nhận thức về những sự kiện và con người
từ những kiếp trước của họ. Thế nên có một số chứng cứ về sự tồn tại của những
kiếp quá khứ.
Khi
chúng ta nói về những kiếp sống vô thỉ, thì chúng ta đang nói về tâm thức vô thỉ,
sự tương tục tinh thần. Tâm thức được định nghĩa như sự trong sáng và tỉnh thức
thuần khiết. Tuy nhiên, chỉ biết sự định nghĩa là không đủ. Thực tế thật quan
trọng để có thể nhận ra và xác định chức năng này của việc làm mọi thứ rõ ràng, trong cảm nhận của việc làm
sinh khởi những hiện tướng hay những sự trình bày tinh thần của các sự vật, và
tỉnh thức về mọi thứ, trong ý nghĩa của sự dấn thân một cách nhận thức với
chúng. Tâm thức cũng là điều gì đấy không có bắt đầu. Thật quan trọng để thiết
lập sự hiện hữu của nó và mối quan hệ của nó với thân thể vật lý. Không phải là
điều gì đấy vật lý, nhưng nó liên hệ đến thân thể vật lý; nó không phải vật chất,
cũng không phải sản phẩm vật lý. Cũng thế, có nhiều trình độ khác nhau của tâm
thức, từ thô đến vi tế. Nó là sự tương tục của trình độ vi tế nhất của nó, thấu
về quá khứ vô lượng kiếp sống, không có một sự bắt đầu.
Đức
Phật nói rằng nếu tâm là điều gì đấy có thể được tạo ra mới đây, hay là một hiện
tượng thoáng qua chỉ đến và đi, hay được tạo ra bởi Thượng đế , thì thật rất
khó để thuần hóa và điều khiển nó. Trái lại, nếu chúng ta nghĩ về tâm thức đến
từ vô thỉ, và những trải nghiệm đến từ những sự thúc đẩy nghiệp, căn cứ trên những
hành vi trước đây, thế thì chúng ta có thể áp dụng nhiều phương pháp để thuần
hóa tâm thức.
Chúng
ta cần thẩm tra những tiến trình thật sự của vấn đề chúng ta có được thông tin
như thế nào, vấn đề chúng ta đi đến để biết mọi vật như thế nào. Dường như
thông tin đến từ bên ngoài, từ điều gì đấy qua mắt ta thấy, tai ta nghe, hay điều
gì giống như thế. Như bây giờ, tôi đang ngồi đây và nhìn vào vị tu sĩ già tóc
trắng ở trước tôi. Dường như có loại gì đấy của ý thức đang nhìn, làm sự nối kết
với thông tin của sự thấy, và xác định đối tượng đặc thù được thấy. Đó là bởi
vì trong khi tôi đang nhìn vào đối tượng
ấy, tôi có thể thấy những thứ về nó trong cái thấy trọn vẹn và rõ ràng của tôi.
Nhưng tâm thức tôi sẽ không nhận thức đối tượng một cách chắc chắn nếu nó đang
nghĩ về điều gì đó đã xảy ra với tôi buổi sáng. Mặc dù mọi thứ xuất hiện ở
chung quanh tôi, nhưng tâm thức tôi sẽ không hướng trực tiếp với nó. Cho nên
thông tin dường như đến từ những giác quan khác nhau và cũng dường như có một
nhân tố nào đó đang chú ý, là điều rõ ràng liên hệ đến tiến trình tinh thần.
Tuy
nhiên, chúng ta phải lìa nó, như kinh luận diễn tả nó. Chúng cần thẩm tra mọi
thứ từ kinh nghiệm của chính chúng ta và cũng như liên hệ đến sự giải thích của
khoa học hiện đại về sự vật, trong dạng
thức của sự trình bày về não bộ, nó hoạt động thế nào qua các giác quan, những
bộ phận khác nhau của não bộ liên hệ với những chức năng tinh thần khác nhau
như thế nào, và v.v… Chúng ta cần cố gắng để thấu hiểu vấn đề tâm thức làm việc
như thế nào trong dạng thức kinh nghiệm của chính chúng ta cũng như trong dạng
thức của sự giải thích khoa học. Điều này chắc chắn sẽ đòi hỏi nhiều công sức khảo sát.
Một
cách chắc chắn có thể đạt đến một sự xác định về vấn đề toàn bộ tiến trình này
hoạt động như thế nào mà phù hợp với cả sự giải thích của Đức Phật cũng như sự
trình bày của khoa học về não bộ và những phần còn lại. Điều ấy cũng đúng liên
hệ đến vấn đề ký ức hoạt động như thế nào và mối quan hệ giữa tâm thức và vật
chất. Với người Tây Tạng chúng ta, thí dụ thế, nếu chúng ta nghe những từ Trung
Hoa và Ấn Độ, mặc dù âm đầu trong hai từ này là giống nhau (“Gyanag” và
“Gyagar”), âm thứ hai khác nhau. Không có bất cứ vật chất gì trong ấy
tác động đến phản ứng của chúng ta; nhưng lập tức, chỉ đơn thuần nghe chữ Trung
Hoa, chúng ta cảm thấy khẩn trương, và nghe chữ Ấn Độ, tâm thức chúng ta cảm thấy
hơi thư thái hơn. Tương tự thế, nếu quý vị nghe chữ Tenzin Gyatso, lập tức tâm thức quý vị cảm thấy vui mừng và
quý vị nghĩ, "tuyệt". Nếu quý vi nghe chữ Mao Trạch Đông, quý vị
nghĩ, "Tên khốn đó". Trong mỗi
trường hợp, không có bất cứ vật chất nào ở đấy ngoại trừ những âm tiết của
nguyên âm và phụ âm, nhưng có một mối quan hệ nào đó với vấn đề cảm giác của
chúng ta hoạt động như thế nào và sự phân biệt trước đây mà chúng ta đã làm và
nhận thức chúng ta nắm giữ.
Thật cực kỳ quan trọng để khảo sát những thứ như vậy,
kể cả những hình tượng quán tưởng và vấn đề chúng xuất hiện đến chúng ta như thế
nào. Tương tự như những gì xảy ra khi chúng ta nghe tên “Tenzin Gyatso” và những
cảm giác đi cùng với nó. Hãy khảo sát một cách khoa học và thấy tất cả chúng xảy
ra như thế nào. Ngay cả nếu nó không thật sự được trình bày cách này trong giáo
huấn nhà Phật, hãy thấy tiến trình gì đang diễn ra trong não bộ, như dường như
thấy não bộ là rất liên hệ trong tất cả những thứ này. Những bộ phận khác nhau
liên hệ với nhận thức thấy và nghe. Hãy thấy những gì đang xảy ra với giấc mơ.
Những khía cạnh liên hệ đến những chức năng của não bộ này là tất cả những thứ
mà chúng ta không thể phủ nhận, bởi vì tất cả chúng được thiết lập qua khoa học.
Giống như khi ai đó đang ngủ, nếu quý vị làm một tiếng động nhỏ mà họ không
nghe nó: nhưng nếu quý vị làm ra một tiếng động lớn sau đó có một phản ứng vật
lý nào đó ngay cả nếu người đó đang ngủ. Ở đây, xét cho cùng, chúng ta không thể
phủ nhận điều này. Chúng ta cần khảo sát để thấy một cách rõ ràng vấn đề mọi thứ
thật sự hoạt động như thế nào căn cứ trên những khám phá của khoa học và rồi
thì vấn đề chúng phù hợp với giáo huấn như thế nào.
Não bộ cũng chắc chắn liên hệ với ký ức. Và nó cũng
đúng với nhận thức thông thường, chằng hạn như nhận thức những gì có thể xảy ra
trong tương lai, là thứ đến từ việc đạt được sự tập trung nhất tâm - định
(samadhi). Những thứ như vậy được giải thích trong kinh điển và thật sự có những
người đã phát triển nó. Một sự tương tục tinh thần đã trải nghiệm điều gì đó đã
xảy ra trước đây có thể có những cảnh báo nào đó về những gì sẽ xảy ra sau này,
nhưng chỉ nếu sự tương tục đó có một mối quan hệ tương hổ nào đó với hai sự kiện.
Có thể phát triển thần thông và cho những điều tiên đoán nào đó về tương lai;
nhưng nếu không có mối quan hệ về một sự kiện tương lai với sự tương tục của
tâm thức, thế thì người ta không thể tiên đoán ngay cả một chút dấu vết gì về
tương lai. Thần thông không sinh khởi bổng nhiên không nền tảng; nó căn cứ vào
những nguyên nhân và hoàn cảnh đa dạng trong sự tương tục tinh thần thật sự của
người có khả năng ấy.
6- Tiến Hóa
Khi chúng ta khảo sát những trình độ khác nhau của
tâm thức, thật tốt để không chỉ liên hệ vào trình độ của kinh điển, mà cũng phải
khảo sát trình độ của mật điển tantra. Mật điển tantra diễn tả trình độ vi tế
nhất của tâm thức và trình độ này đến từ những kiếp sống trước và tiếp tục vào
những kiếp sống khác. Nối kết với nó là trình độ vi tế nhất của thân thể, là
năng lượng gió vi tế nhất luôn luôn đồng hành với trình độ ấy của tâm thức. Cái
"tôi" là điều gì đấy có thể được mệnh danh trên hai điều này như căn
bản của nó cho sự đặt tên, và sự phối hợp này du hành từ những kiếp sống quá khứ
đến hiện tại và tiếp tục trong những kiếp tương lai.
Trong
mỗi kiếp sống, tâm thức và thân thể vi tế nhất, qua một tiến trình tiến hóa, trở
thành thô hơn một các trình tự khi chúng bắt đầu nối kết với những yếu tố vật
chất thô. Trong dạng thức của sự tiến hóa phổ thông trong bối cảnh của thời kỳ thế
giới này, kinh điển diễn tả, vào lúc khởi đầu, những chúng sanh nguyên thỉ sống
chỉ bằng thiền định và không cần ăn như thế nào. Tuy nhiên, cuối cùng họ ăn những
thực phẩm thô hơn và thô hơn và đòi hỏi những thân thể tiến hóa thô phù hơn.
Bây giờ chúng ta cần khảo sát điều này có liên hệ một cách tuyệt đối mọi người
không khi đời sống bắt đầu hòa nhập trong một thời kỳ thế giới hay chỉ những
chúng sanh nào đó vào lúc ấy.
Nhìn
vào Tây Tạng. Chúng ta nghĩ về chính chúng ta như hậu duệ từ những bổn tôn khác
nhau kết đôi với những con khỉ và con người tiến hóa từ đấy. Khoa học nói về những
hình thức sống đơn giản hơn tiến hóa thành những thứ phức tạp hơn và như thế là
con người đã tiến hóa như thế nào. Chính tôi có niềm tin vững vàng vào cả hai
thuyết tiến hóa này. Như niên kỷ của những người đầu tiên ở Tây Tạng, thì có những
chứng cớ khoa học rằng con người đã ở đấy trước thời kỳ của Đức Phật Thích Ca.
Khảo cổ đào xới đã thấy xương người và những thứ khác còn lại ở Chamdo và
Kongbo, niên đại ba nghìn năm trước. Trái lại, Đức Phật tiên đoán rằng hai trăm
năm sau khi Ngài niết bàn, thì một thế hệ mới của con người mới sống ở quê
hương Tuyết Sơn. Điều hòa hai thứ này ra sao?
Cũng
rõ ràng rằng đã từng có một hồ nước trong vùng Lhasa, bởi vì trong năm 1956 một
nhóm địa chất học đã thấy những hóa thạch của đời sống cây cỏ ở đấy. Họ cho thấy
rằng lá của một cây đã rơi vào hồ, và nó được bảo tồn trong bùn dưới đáy. Cho
nên rõ ràng vốn đã có một hồ nước ở đấy, với một khu rừng bên bờ hồ. Hồ nước dần
dần thu hẹp lại và cuối cùng khô cạn, và ngôi chùa Tsuglagkang được xây dựng
trên vết tích của hồ nước ấy. Sự tiên đoán của Đức Phật đã không nói đến sự tồn
tại của bất cứ giống người nào xa hơn phạm vi của hồ nước, mà chỉ cho biết rằng
một thế hệ mới con người sẽ đến vùng ấy và sống trên đất khô nổi lên từ trung
tâm của hồ nước. Điều này không mâu thuẩn với chứng cớ khoa học về những người
tiền sử ở Chamdo và những vùng khác ở Tây Tạng trước thời gian ấy. Giống như vậy,
chúng ta cần khảo sát ý nghĩa của những thứ này trong kinh điển và khoa học.
Như
thuyết tiến hóa, dạy về sự phát triển tiến dần của những hình thức sống phức tạp
từ những thứ đơn giản, Đức Phật Thích Ca đã đến để dạy chúng ta vấn đề đạt đến
một thể trạng diệu lạc trường cửu
của tâm thức. Ngài không đến để dạy về thế giới tròn, vuông, hay chữ nhật. Trong
thân thể giáo huấn của Đức Phật, có những bình luận nào đó về những con người
và nơi chốn đặc thù nguyên thỉ, nhưng đây không phải là chủ đề chính. Những vấn
đề chính đối diện với nghiệp và tâm ý con người và vấn đề phát sinh hạnh phúc
trường cửu như thế nào trong dòng suối tâm ấy. Một Đức Phật luôn luôn dạy trong
dạng thức của những gì sẽ xảy ra phù hợp với thiên hướng của con người và cung
cách tư duy của họ. Nếu nó hợp với cách
suy nghĩ của họ, Ngài có thể dạ rằng mọi vật thật có sự tồn tại thường trú,
trái lại với những người khác Ngài sẽ dạy rằng chúng không có.
Trước
đây ở phương Tây, người ta giết nhau vì những nhận thức thích đáng về thế giới
mà họ chủ trương. Không ai tin rằng thế giới là tròn. Họ tin rằng nó bằng thẳng
và họ giết nhau vì những việc như vậy. Vấn
đề Đức Phật dạy không phải về việc phát sinh một tâm thức tin rằng thế giới bằng
thẳng hay tròn. Như vậy là thiếu sót vấn đề.
Toàn bộ vấn đề của giáo huấn về thời gian vô thỉ là tâm thức vô thỉ,
không có chỗ bắt đầu. Nếu Ngài không nói về sự vô thỉ của tâm thức, thì sẽ
không có vấn đề gì nhiều trong sự bàn luận của Ngài về vô thỉ trong phổ quát.
Chính là trên căn bản của tâm thức vô thỉ mà chúng ta có sự thảo luận về mối
quan hệ của tâm thức với thân thể trong dạng thức của nghiệp. Trong toàn bộ sự
tương tục của tâm thức vô thỉ, nhiều loại thân thể đa dạng đã đến và đi, cả
trong một trình độ của cá nhân và thế giới. Sự bàn luận về thời gian vô thỉ và
tâm thức vô thỉ phải được căn cứ trên luận lý và lý trí, và nó là điều gì đấy
có thể được thiết lập một cách rõ ràng trong cách ấy. Thế nên thật quan trọng để
đặt một nổ lực lớn vào trong việc khảo sát những điểm này với luận lý (logic).
7- Để Hết Tâm Thức
Vào Những Thể Trạng Tích Cực
Vì
mỗi chúng ta có một sự tương tục tinh thần cá nhân vô thỉ, nó sẽ đi theo phương
hướng nào? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến các nội dung kinh nghiệm của nó?
Chúng ta thấy rằng, từ thời vô thỉ, chúng ta đã bị ảnh hưởng của dính mắc
(tham), hung hăng (sân), và ngu ngơ (si). Đây là những gì được gọi theo châm
ngôn "năng lực khác" hay "bị dưới sự ảnh hưởng của những nhân tố
khác". Nói cách khác, tâm thức không ở dưới sự điều khiển của chúng ta, nó
bị điều khiển bởi những nhân tố khác này: những cảm xúc phiền não đủ thứ, vọng
tưởng, bất giác (si mê), và v.v… Bởi vì tâm thức chúng ta chưa được thuần hóa,
chúng ta biểu hiện tất cả những loại hành vi tiêu cực và chúng xây đắp thành những
loại nghiệp chướng đủ loại sau đấy, là thứ ghi nhớ mãi những kiểu thức của thái
độ này và đem chúng ta tới nhiều rắc rối hơn. Chúng ta trải nghiệm bất hạnh và
khổ đau như những gì chín muồi từ năng lực nghiệp tiêu cực đã đến như kết quả của
những hành vi tiêu cực của chúng ta. Chúng ta hành động trong những cung cách ấy
do bởi những thúc đẩy nghiệp tiêu cực sinh khởi từ tâm thức chúng ta. Và chúng
đã đến từ đâu? Chúng đến từ tâm thức chúng ta không ở dưới sự kiểm soát của
chúng ta. Cho nên thật cần thiết để đem tâm thức chúng ta dưới sự điểu khiển,
và không để chúng diễn ra dưới ảnh hưởng của những cảm xúc và thái độ phiền
não. Chúng ta cần bắt buộc chúng ở dưới sự điều khiển của những cảm xúc và thái
độ xây dựng, tích cực.
Để
có thể áp dụng tâm thức chúng ta vào những khuynh hướng tích cực, chúng ta cần
làm tâm thức nhu nhuyến và tiện dụng, vì thế
chúng ta có thể áp dụng chúng vào nguyện vọng của bất cứ điều gì chúng
ta mong ước. Để làm tâm thức tiện dụng,
chúng ta cần sử dụng nhiều trình tự đa dạng của việc rèn luyện tâm qua thiền tập.
Qua việc thường xuyên tập luyện và làm cho quen thuộc, thiền tập sẽ xây dựng
thành như một thói quen nào đó của những thể trạng tích cực của tâm thức. Những
thể trạng này làm cho tâm thức chúng ta uyển chuyển hơn vì thế chúng ta có thể
áp dụng chúng đến những thể trạng tích cực xa
hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn làm điều này, tâm thức chúng ta cần ổn
định. Bất chấp đối tượng hay tình trạng tinh thần nào chúng ta đem ra như đối
tượng của sự tập trung, nếu tâm thức không ở tình trạng tập trung vào nó một
cách ổn định, thì chúng ta sẽ không thể làm quen thuộc với chúng với thể trạng
này và hợp nhất nó như một bộ phận của tâm thức chúng ta.
Thí
dụ, nếu chúng ta cố gắng để phát triển thói quen bi mẫn, tâm thức chúng ta phải
thật sự tập trung, với ổn định, trong thể trạng ấy. Nếu tâm thức chúng ta hoàn
toàn bị đắm chìm trong một cảm xúc, thái độ, hay tình trạng của tâm trong phổ
quát, thì nó sẽ xây dựng thành một năng lực to lớn để trụ trong phương hướng ấy.
Khi chúng ta cố gắng qua thiền tập, để thực hiện lòng bi mẫn thành một thói
quen rất mạnh mẽ, nếu tư tưởng về vô thường hay khổ đau và những rắc rối sinh
khởi, mặc dù những tư tưởng như vậy một cách lý thuyết có thể là một sự hổ trợ,
tại một thời điểm nhất định của việc cố gắng để xây dựng sự tập trung về bi mẫn,
nhưng chúng là những chướng ngại. Chúng ta cần hoàn toàn hòa nhập sự tập trung
của chúng ta, một cách nhất tâm, trong đối tượng của thiền tập.
Trước
khi chúng ta có thể trầm tư và hòa nhập tâm thức vào thể trạng mà chúng ta muốn
xây dựng như một thái độ tích cực, trước nhất chúng ta cần xác định bản chất thật
sự của thể trạng tâm thức ấy. Chúng ta cần biết nó là gì, một cách đúng đắn và
với sự chắc chắn. Chỉ trên căn bản của sự nhận diện và xác định mạnh mẽ này với
thể trạng mà chúng ta có thể cảm thấy tự tin để hòa nhập tâm thức chúng ta vào
nó. Giống như thế, chúng ta cần có một sự tự tin mạnh mẽ trong sự cần thiết cho
việc phát triển thể trạng tâm thức ấy. Hãy quan tâm thí dụ về bi mẫn. Với thiền
quán phân tích, liễu biệt thiền, chúng ta cần nghĩ trước nhất, "Bi mẫn là
điều gì đấy tôi chắc chắn cần để phát triển vì lý do này và lý do nọ." Khi
chúng ta thấu suốt tất cả lý do cho việc phát triển nó, chúng ta phát triển một
sự tự tin rất mạnh mẽ vào bi mẫn. Rồi
thì chỉ thế, chúng ta mới có thể hòa nhập tâm thức chúng ta hoàn toàn trong nó
qua thiền định tập trung, tam muội thiền, thiền nhất tâm và biết nó là rất hữu
ích.
Luận
điển thảo luận những lợi ích của việc thực hiện ba thời khóa thiền tập ban ngày
và ba vào ban đêm. Cũng cần thiết để an trú một nơi cô lập và yên tĩnh trong những thời khóa thiền tập
và những thời điểm giữa các buổi thiền tập. Nếu chúng ta nghe những âm thanh ồn
ào và rối rắm và có những loại tư tưởng phiền não, thì tâm thức chúng ta sẽ bị
khó chịu và chúng ta sẽ không thể tập trung một cách thích đáng. Cũng thế, như
tôi nói với các sư thầy và sư cô, chúng ta cần chăm sóc thể trạng tâm thức của
chúng ta một cách phổ quát. Liên hệ đến điều này, luận điển cũng nói rằng một
tình trạng khác có lợi cho thiền tập là không ăn về đêm. Dĩ nhiên, nếu chúng ta
thấy rằng thân thể chúng ta không có đủ dinh dưỡng và cảm thấy yếu đuối từ việc
không ăn sau bửa trưa, thế thì đấy là một hoàn cảnh khác. Chúng ta phải đưa những
thực tế vật lý của thân thể vào trong sự quan tâm. Tuy nhiên, nếu chúng ta có
thể, thì sẽ có lợi hơn nếu chúng ta không ăn về đêm. Những sự giải thích chi tiết
hơn về điều này có thể được thấy trong hai luận điển về con đường tiệm tiến
Lamrim của Tông Khách Ba.
8- Những Sự Chuẩn
Bị Sơ Bộ: Sự Tái Sanh Thân Người Quý Giá
Điểm
thứ nhất của 7 điểm rèn luyện tâm là những sự chuẩn bị sơ bộ, là căn bản hổ trợ.
Đây là nghĩ về:
*
sự tái sanh thân người quý giá
*sự
chết và vô thường,
*
hành trạng của nhân quả, hay nghiệp báo,
*
khổ đau hay những rắc rối của sự luân hồi không thể kiểm soát.
Luận
điển bây giờ nói về sự chuẩn bị thứ nhất, sự tái sanh thân người quý giá. Trước
nhất chúng ta cần nhận ra 8 sự nghĩ ngơi ngắn và 10 sự tô điểm. Những sự nghĩ ngơi ngắn, hay nhàn rỗi, là những
tình trạng tạm thời của sự giải thoát khỏi 8 hoàn cảnh không nhàn rỗi.
(Từ
trong 8 hoàn cảnh không nhàn rỗi ngăn trở sự thực hành Phật Pháp, là 4 hoàn cảnh
không phải con người như bị tái sanh như:
*
một chúng sanh bị kẹt trong một thế giới không được thư thái (địa ngục),
*
một chúng sanh quỷ đói (ngã quỷ),
*
một chúng sanh bò trườn (súc sanh),
*
một chúng sanh sống lâu trên trời (chư thiên),
4
hoàn cảnh con người không được thư thái như bị tái sanh làm
*
một kẻ man rợ sống trong những vùng biên địa hoang dã,
*
trong một vùng đất nơi không có Phật Pháp,
*
với tàn tật nghiêm trọng,
*
chấp giữ một quan điểm vọng tưởng một cách bản năng về đời sống, phủ nhận sự thật.
Từ
trong 10 hoàn cảnh phong phú là có thể được thực tập Phật Pháp (10 sự hổ trợ),
5
hoàn cảnh cá nhân là được tái sanh như
*
một con người,
*
ở vùng trung tâm của Phật Pháp,
*
với đầy đủ năng lực,
*
không còn bị trải nghiệm những hậu quả từ việc phạm phải những hành vi tiêu cực
trầm trọng nhất,
*
tin tưởng từ bản năng trong những sự thật.
5
hoàn cảnh xã hội có thể thực tập Phật
Pháp là được tái sanh
*
nơi và khi một Đức Phật xuất hiện,
*
đã giảng dạy Phật Pháp,
*
Phật Pháp vẫn còn được duy trì,
*
với một cộng đồng tăng ni theo gương của Đức Phật,
*
với sự hổ trợ bi mẫn khác từ cộng đồng tăng ni.
Điều
thứ nhất trong những hoàn cảnh không được thư thái là có tư duy vọng tưởng đối
kháng. Những ai nói năng một cách đối kháng rằng thần thông là không thể có -
hay ngay cả không thể thấy những chúng sanh tái sanh vào một hoàn cảnh mà trong
ấy giáo huấn của Đức Phật hiện hành - là hoàn toàn không thể theo đuổi sự thực
tập Phật Pháp, và đôi khi chán nản đến mức muốn tự tử.
May
mắn thay chúng ta không giống như vậy. Chúng ta mạnh khỏe, với một thân thể
tráng kiện và một sự thông minh khôn ngoan để thấu hiểu. Thí dụ, có một người
Âu Mỹ ở đây với chúng ta; người Tây Tạng gọi là "những người tóc
vàng", nhưng một số tóc đậm, một số tóc đỏ, và ngay cả một số hói đầu! Và
những người sanh ở Trung Hoa có thể không có cơ hội để thực tập Phật Pháp. Tuy
nhiên, những người ngoại quốc ở đây, mặc
dù sinh ra trong một quốc độ chưa có sự hiện diện của Phật Pháp, nhưng đã nghe
về nó và những thuận lợi của nó, và họ đã đến đây để học hỏi.
Có
một điểm tranh luận ở đây như những người đến từ Hoa Kỳ đến từ Bắc Bán Cầu. Có
phải họ có những nghiệp chướng nặng nề không, nhưng không phải như vậy. Theo
kinh điển, những người đến từ Lục Địa Phía Bắc (Bắc Cư Lô Châu) không làm chủ sở
hữu và không có tài sản - nhưng ở Hoa Kỳ, người ta rất tiến bộ rất thịnh vượng
và giàu có vật chất! Cũng dường như Phật Giáo rất hấp dẫn ở USA, bởi vì có nhiều
người nhập cư từ những nơi như Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam mà truyền thống
cha mẹ họ là Phật Giáo. Cũng có rất nhiều
người Hoa Kỳ đã từng có được sự tiếp xúc với Phật Giáo Tây Tạng và có một sự
quan tâm đã sinh khởi ở đấy.
Đây
là tất cả những gì thảo luận về một trong những trường hợp không thư thái mà
thân người quý giá được tự do. Tái sanh với một thân người là khó đạt được,
nhưng ngay cả nếu được tái sanh như con người thì những khả năng để gặp gở Phật
Pháp là rất ít. Ngay cả nếu chúng ta đã gặp Phật Pháp, nếu chúng ta khiếm khuyết
trong dạng thức của việc bị tàn tật nặng nề và thất học, thì cơ hội bị đánh mất.
Và ngay cả nếu chúng ta không bị tàn tật
nặng nề, vẫn có thể là chúng ta được sanh ra với một thái độ cực kỳ vọng tưởng
đối kháng, và như vậy thì thật sự trở ngại cho khả năng phát triển của chúng
ta.
Thật
hữu ích nếu chúng ta nhìn vào những hoàn cảnh khác nhau không được thư thái
này, và nghĩ: " Tôi có thể bị sanh trong một tình trạng như vậy dễ dàng
như thế nào, và thật may mắn như thế nào để tôi được tự do khỏi thứ ấy." Khi
chúng ta nghĩ một cách rất mạnh mẽ về hoàn cảnh này, chúng ta đã thoát khỏi một
hoàn cảnh không được thư thái, và rồi thì chúng ta phát triển một cảm nhận lớn
lao về hạnh phúc và tự do, đó là một bộ phận của việc thiền quán này.
Trong
10 hoàn cảnh phong phú giàu có, được sinh ra như một con người, trong một vùng
đô hội và v.v…là những sự phong phú từ chính phía cá nhân của chúng ta. Cũng có
những sự phong phú từ phía xã hội, chẳng hạn như được sanh ra ở một thời điểm
khi Đức Phật hiện diện, khi giáo huấn Đức Phật phát triển, và khi có những người
thí chủ hổ trợ và người ta thực tập chúng.
Bây
giờ, tất cả chúng ta có 8 hoàn cảnh thư thái. Trong khi có thể khó để gặp gở tất
cả những phẩm chất của 10 điều phong phú, điều quan trọng nhất là 8 hoàn cảnh
thư thái, hay nhàn nhã, mà chúng ta có. Đó là tại sao, trong nhiều luận điển,
chúng thường nói về thân thể rất thư thái này, thân thể nhàn nhã này, bởi vì
đây là những thứ mà tất cả chúng ta thật có. Tất cả vấn đề này là, nếu chúng ta
có một cơ hội lớn, kiếp sống con người quý giá này, thì chúng ta không thể để
nó lãng phí; chúng ta cần tận dụng để làm lợi lạc.
Làm
sao để chúng ta thật sự tận dụng thân người quý giá này? Con người đến từ Bắc
Cư Lô Châu bị loại khỏi sự thư thái và tự do này - chỉ những người đến từ ba lục
địa khác[1].
Việc nghĩ về tầm quan trọng của sự quý giá này và hành động trên căn bản mà
chúng ta có, thì chúng ta có thể đạt được tất cả những thể trạng tịnh hóa của
Giác Ngộ (bodhi): tên là, những thể trạng thanh tịnh của một A la hán hay Thanh
Văn hay Duyên Giác Phật, hay thể trạng tinh khiết của một Đức Phật toàn giác.
Thân người quý giá này là căn bản mà trên ấy chúng ta thật sự có thể đạt được bất
cứ những mục tiêu tâm linh lớn lao này. Ngoài thân người quý giá, thì không có
căn bản nào khác mà từ ấy chúng ta có thể phát triển một xu hướng tâm giác ngộ
mạnh mẽ (bodhichitta). Thân người quý giá này điều gì đó cần thiết tuyệt đối nhằm
để thực hành con đường tu tập mật tông, như ngài Long Giác (Nagabodhi), một đệ
tử của Long Thọ, giải thích trong trình bày của ngài về những giai tầng tu tập.
Kiếp
sống con người quý giá mà chúng ta có trên lục địa này là một thân thể của những
hành động. Chúng ta sống trên vùng đất của hành động này, có nghĩa là, căn cứ
trên những hành vi đa dạng, chúng ta có thể có một đời sống hoặc dài hoặc ngắn,
và chúng ta có thể đạt được nhiều thứ trong kiếp sống này. Vì chúng ta được
sinh ra trong vùng đất của hành động - Nam Thiện Bộ Châu (Nam Lục Địa) - thật
có thể bằng những hành động của chúng ta để đạt đến điều gì đó trong kiếp sống
này. Cho nên, kiếp sống con người quý giá này là điều gì đấy cực kỳ mãnh lực.
Thêm vào điều này, nếu kiếp sống con người quý giá có 8 phẩm chất tốt đẹp chín
muồi, thế thì khi chúng ta nghĩ về những nguyên nhân cá nhân và bản chất của 8
điều này, chúng ta sẽ gia tăng năng lực của chúng ta để đạt được tất cả những mục
tiêu của chúng ta. Có được năng lực như vậy và quăng bỏ nó đi thì thật là lãng
phí, có phải không? Giống như là chúng
ta có một vật gia bảo quý giá làm bằng vàng để sử dụng như căn bản tài chánh để
hổ trợ cho đời sống của chúng ta; nhưng thay vì thế, chúng ta lại chỉ lãng phí
nó. Đó thật là một hoàn cảnh đáng buồn.
[8
phẩm chất tốt đẹp chín muồi cho một sự tái sanh thân người quý giá là:
*
Có một sự trường thọ,
*
Một thân tướng mạnh khỏe hạnh phúc,
*
Một gia đình vốn tuyệt vời, đẳng cấp,
*
Thịnh vượng,
*
Lời nói tin cậy được,
*
Sức mạnh và ảnh hưởng,
* Một thân thể mạnh mẽ, bền bĩ chịu đựng, và một
tâm thức mạnh mẽ hay ý chí năng lực to lớn.
*
Là đại trượng phu, ở trong một xã hội truyền thống nghĩa là có nhiều cơ hội
hơn.]
Khi
chúng ta có nhận thức rằng lãng phí thân
người quý giá, ngay cả một giây, sẽ là một mất mát lớn, đây là nhận thức
về sự tái sanh thân người quý giá. Kinh điển liên hệ đến những thuận lợi lớn
lao của sự tái sanh thân người quý giá như hạt giống cho việc làm tăng trưởng tất
cả những phẩm chất tốt đẹp, và một viên ngọc lớn đem tất cả mọi thành tựu đến
cho chúng ta. Trong Hướng Dẫn Lối Sống Của
Bồ Tát, Tịch Thiên nói, "Như vậy, đã có được sự nhàn nhã như thế này, nếu
tôi không làm cuộc sống cấu thành một xu hướng [tích cực], thì không có gì tự lừa
dối hơn điều này; không có gì ngu xuẩn hơn điều này ...Thế nào đấy, đã có được
một sự tái sanh lợi lạc, rất khó tìm, nếu bây giờ, trong khi có thể phân biệt,
tôi lại tự lôi tôi xuống một thế giới khổ đau một lần nữa, rốt cuộc là không có
một tâm thức như trong khi ở đây, giống như bị choáng váng bởi một sự quyến rũ
bùa phép. Nếu tôi không biết những gì làm cho tôi quá ngu ngốc, à, có điều gì đấy
trong đầu tôi?"
Trích
dẫn này từ Tịch Thiên tương tự như những gì Aryashura nói: "Một khi chúng
ta đã có cơ hội quý giá này, chúng ta nhất quyết không vứt bỏ nó đi bởi vì, nếu
chúng ta bị rơi vào một tình trạng không thể chịu đựng nổi nào đó, giống như bị
kẹt trong thế giới địa ngục không niềm vui, thì chúng ta sẽ không có cơ hội để
cải thiện điều kiện của chúng ta." Cho nên chúng ta cần nghĩ vấn đề chúng
ta may mắn như thế nào, rằng chúng ta đang ở trong một hoàn cảnh mà trong ấy
chúng ta thật sự có thể làm điều gì đó về những gì xảy ra cho chúng ta.
Nếu
thân người quý giá này, với 8 sự thư thái và 10 sự phong phú, là điều gì đấy dễ
dàng để có được lần nữa và lần nữa, sẽ không quá buồn. Giống như một đứa bé,
chúng ta có thể nghĩ, "Nếu tôi không có được thân người quý giá hôm nay
hay ngày mai, thì chẳng bao lâu tôi thế nào cũng sẽ có được." Nếu điều này
là như vậy, nó sẽ là một câu chuyện khác. Nhưng thực tế là đời sống con người
quý giá này là cực kỳ hiếm hoi và khó khăn để có được. Để thấu hiểu điều này,
trước nhất chúng ta cần nhìn vào nhân và quả - nếu những nguyên nhân là không
hiếm hoi, thì những kết quả cũng sẽ như vậy. Nhưng chính những nguyên nhân là rất
hiếm hoi.
Triết
lý căn bản và quan điểm của Phật Giáo là mọi thứ sinh khởi một cách lệ thuộc vào
những thứ khác: mọi thứ đến từ những nguyên nhân. Một sự tái sanh thân người
quý giá không phải là điều gì đấy hình thành từ không khí, nhưng như một kết quả
của những nguyên nhân. Những con người đến từ tinh trùng và trứng của cha mẹ họ,
là những người đến từ những tinh trùng và trứng trước đây nữa, và vì thế nó diễn
tiến, ngược lại tận cùng và qua quá trình tiến hóa. Những con người phát triển
trong một môi trường mới bắt đầu trong một vũ trụ mới hình thành, một cách
trình tự, xảy đến từ một thời điểm trước đây khi một vũ trụ như vậy chưa hiện hữu.
Sự tiến triển như vậy qua những vòng luân hồi tiến bộ hơn từ những kiếp luân hồi
trước đó, tất cả những hiện tướng này là kết quả từ nhiều nguyên nhân, như thế
vớ nghiệp quả khác nhau của những chúng sanh khác nhau đó. Giống như những hình
thức sống khác nhau trong vũ trụ đến từ những nguyên nhân, những áp dụng giống
nhau như vậy đến sự tương tục tinh thần cá nhân của chúng ta và những hình thức sống mà họ đón nhận. Những hành vi mà chúng ta thực hiện trong quá
khứ mang đến, như một tác động của những hành vi này, đến những sự sanh ra mà
chúng ta có. Và những gì chúng ta làm trong kiếp sống này sẽ quyết định cho những
sự tái sanh trong tương lai của chúng ta.
Sự
tương tục tinh thần của chúng ta không luôn luôn duy trì giống như vậy. Nó
khác nhau như một cư sĩ và một tu sĩ với
những thệ nguyện hay giới luật. Tăng và ni có một sự hấp dẫn trong việc dâng hiến
toàn bộ đời sống của họ cho Phật Giáo. Và những gì làm nên một vị tăng hay ni?
Đó là tác động của những thệ nguyện trong sự tương tục tinh thần của họ, những
sự rèn luyện khác nhau, những tiết chế và v.v…, là những thứ đến từ chư Phật.
Điều này hình thành qua một tiến trình của các nguyên nhân. Thí dụ, một tu sĩ
có thể nghĩ, "Mặc dù như một tu sĩ tôi tuân theo những giới luật nào đó,
nhưng nếu tâm thức tôi bị nhiễm ô bởi những thái độ phiền não, thì tôi sẽ lãng
phí cơ hội mà tôi có." Thế nên chúng ta cần sử dụng một cách thích đáng thời
gian và cơ hội mà chúng ta có. Ngay khi thức dậy trong buổi sáng, chúng ta thực
hiện nhiều cầu nguyện và trì tụng đủ thứ. Nếu tâm thức chúng ta lang thang,
chúng ta cố gắng kiểm soát đem nó lại. Chúng ta không thể đánh mất cơ hội -
ngay cả nếu chúng ta cần phải tát vào mặt chúng ta để trở lại điểm hành thiền!
Điều
gì đó đặc thù chúng ta muốn bảo về chống lại là việc nổi giận. Nếu chúng ta nổi
giận với người khác, như Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát, là nó sẽ phá hủy tất cả mọi năng lực
tích cực mà chúng ta đã xây dựng trong sự tương tục tinh thần của chúng ta. Tịch
Thiên, cũng nói với chúng ta rằng nguyên nhân cho sự nổi giận là rất nhiều, bởi
vì không chỉ chúng ta nổi giận với những
người chọc tức ta, mà chúng ta thậm chí trở nên không kiên nhẫn với những
con chim hót quá lớn! Chúng ta khó chịu không cần thiết một cách quá dễ dàng vì thế chúng ta phải
chăm sóc để cảnh giác với xu hướng này đối với sân hận. Chúng ta thấy điềm gì
đó không may và chúng ta băn khoăn! Những con chó giữ cho chúng ta tỉnh thức về
đêm và chúng ta nổi giận với chúng vì không để chúng ta ngủ! Tuy thế so sánh với
những người Cộng Sản Hoa Lục, những kẻ cố gắng để bào chửa cho sự giết chóc,
tra tấn và làm người khác đau khổ, thì chúng ta không quá tệ. Tối thiểu chúng
ta thực hiện một nổ lực để là người tôn giáo, để làm những việc tốt, và để ở
trên con đường đúng.
Chúng
ta có thể đã học tập và rồi cảm thấy tự hào lắm, nghĩ, "Tôi biết kinh luận rất giỏi, tôi
là một vị thầy lớn, và mọi thứ có thể rơi trên vai tôi - tôi sẽ dạy mọi người."
Nếu chúng ta có loại tâm tư kiêu ngạo ấy, và một cách đặc biệt nếu động cơ của
chúng ta là giảng dạy để làm ra nhiều tiền và trở thành rất nổi tiếng, đây là một
sự lãng phí hoàn toàn sự học hỏi của chúng ta. Tất cả những thứ ấy sẽ là vô
nghĩa. Những người nào không tuân theo con đường tâm linh một cách đúng đắn thì
giống như một con lừa kiệt sức dừng lại bên đường và không thể di chuyển hay
làm thêm bất cứ tiến trình nào.
Người
Cộng Sản Hoa Lục, không thừa nhận bất cứ tôn giáo nào và phê bình tới lui mỗi
người, cũng tệ hại như chúng ta ở đây, mang y áo, đáng lẻ phải thực hiện những
sự thực tập tôn giáo đủ loại, tuy thế thay vì vậy lại sử dụng thời gian phê
phán tu sĩ bên trái làm thế này thế nọ, và tu sĩ bên phải làm thế nọ thế kia.
Hành động trong cách này tạo ra nhiều năng lực tiêu cực hơn những người Cộng Sản
Hoa Lục, cũng làm như vậy mà không thừa nhận bất cứ tôn giáo nào.
Nếu
chúng ta không xây dựng nên những nguyên nhân trong kiếp sống này để đạt được
thân người quý giá trong tương lai, một sự tái sanh như vậy là rất khó để đạt đến.
Chúng ta có thể thẩm tra sự hiếm hoi của nó trong dạng thức của cả bản chất và
số lượng của nó, chẳng hạn như sự kiện rằng có nhiều côn trùng hơn con người,
thí dụ thế. Ngay cả nếu chúng ta không xem xét đến những chúng sanh bị kẹt
trong thế giới không có niềm vui của địa ngục, và những con quỷ nanh vuốt đói
khát, vì chúng ta không thật sự thấy chúng, nhưng chúng ta vẫn không thể đếm một cách chính xác số lượng
thú vật và côn trùng trong thế giới này. Vì thế, từ quan điểm về số lượng thật
sự của con người trong mỗi hình thức sống, thì chúng ta có thể thấy rằng số lượng
của những ai có đời sống con người quý giá là rất ít.
Ước
lượng dân số địa cầu là 4.8 tỉ người (1985). Có bao nhiêu người trong số này có
đầy đủ phẩm chất của sự tái sanh kiếp người quý giá, cả trong dạng thức những
con số thống kê và nguyên nhân? Chúng ta cần tự hỏi mình, chúng ta thật sự có
những điều kiện nguyên nhân hoàn toàn trong chúng ta để đạt được một sự tái
sanh thân người quý giá không? Khi chúng ta nghĩ trong cách này, thì chúng ta
có thể đánh giá đúng thử thách về vấn đề có ít người như thế nào được tái sanh
thân người quý giá, và vấn đề khó khăn thế nào để tích tập những nguyên nhân cho việc đạt đến sự tái sanh thân
người quý giá.
Như
sự thiết lập Giáo Pháp, nó được tạo thành không phải vì lợi ích của chính các Đức
Phật, nhưng vì lợi ích của những ai muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau - những
chúng sanh như chúng ta. Và nó được dạy để làm cho chúng ta có thể kiểm soát và
thuần hóa tâm thức chúng ta. Những hoàn cảnh nào có lợi cho điều này? Nếu chúng
ta có hoàn cảnh ngoại tại của việc có một vị hướng dẫn tâm linh đầy đủ phẩm chất
và hoàn cảnh nội tại của một sự tái sanh thân người quý giá, thì chúng ta có khả
năng để thực hiện một tiến trình và đạt đến những mục tiêu này. Nếu chúng ta thậm
chí nghĩ xa hơn, từ một trình độ sâu xa hơn, trong dạng thức của Phật tánh, quả
vậy chúng ta thật có tất cả những nhân tố thiết yếu sẽ cho phép chúng ta tiến
hóa hoàn toàn thành những Đức Phật. Với tất cả những căn bản, nguyên nhân và
hoàn cảnh sẳn sàng, không có lý do gì tại sao chúng ta không đạt đến những mục
tiêu của chúng ta. Lời nhắc nhở không
lãng phí lần này là điều gì đó mà chúng ta phải để ý ngay bây giờ, không phải
"năm tới", hay trong một tương lai mơ hồ nào đó. Chúng ta không thể bỏ
lở thời điểm này! Đây là bởi vì cuộc sống có thể thật là ngắn ngủi, và cung
cách tốt nhất để tận dụng sự tái sanh thân người quý giá của chúng ta là để
phát triển khuynh hướng tâm giác ngộ - tâm bồ đề - hay bodhicitta.
Vậy
thì chúng ta hãy phản chiếu, một cách sâu sắc, trên vấn đề một kiếp sống con
người quý giá có thể hiếm hoi và ngắn ngủi như thế nào. Chúng ta hãy quyết tâm,
một cách dứt khoát, để sử dụng nó trong một cách tận lực nhất, thực hiện cầu
nguyện và thỉnh cầu để làm điều này bằng việc phát triển khuynh hướng tâm giác
ngộ. Đây là hoàn tất sự chuẩn bị đầu tiên.
Ẩn
Tâm Lộ, Wednesday, January 21, 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét