Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

TÁI SINH VÀ CÁCH MẠNG – PHẬT GIÁO NHẬP THẾ TẠI NHẬT BẢN:

 Đối thoại với Jonathan Watts



Nguyên tác: Rebirth and Revolution – Engaged Buddhism in Japan: A Conversation with Jonathan Watts
Tác giả: Craig C Lewis
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***

Phật giáo nhập thế có thể được hiểu là sự kết hợp giữa giáo lý Phật giáo với hoạt động xã hội và hành động từ bi để giải quyết đau khổ của cá nhân và cộng đồng. Hơn thế nữa, Phật giáo dấn thân được xây dựng trên sự hiểu biết rằng con đường Phật giáo không chỉ là hành trình giác ngộ cá nhân, mà còn là một thực hành mà qua đó mỗi cá nhân tích cực đóng góp cho phúc lợi xã hội, nhận thức rằng sự thức tỉnh tâm linh và chuyển hóa xã hội phụ thuộc lẫn nhau như chính sự tồn tại, và rằng lòng từ bi và trí tuệ đích thực được thể hiện, hiện thực thông qua hành động từ bi.

Tại Nhật Bản, Phật giáo nhập thế nổi lên trong thời hiện đại như một khát vọng thay đổi để ứng phó với những biến động xã hội sâu sắc sau Thế chiến thứ hai. Có lẽ một số nhân vật Phật giáo nhập thế Nhật Bản được giới quan sát bên ngoài biết đến nhiều hơn bao gồm nhà sáng lập Soka Gakki International và nhà vận động hòa bình Daisaku Ikeda (sinh năm 1928), và Nichidatsu Fujii (1885–1985), nhà sư Phật giáo và người sáng lập tông phái Nipponzan-Myohoji (Nhật Bổn Sơn Diệu Pháp Tự Đại Tăng Già) hoạt động xã hội.

Bắt nguồn từ di sản Phật giáo phong phú và lâu đời của đất nước, Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản đã phát triển thành một phản ứng ngày càng mạnh mẽ trước những vấn đề xã hội cấp bách mà xã hội đương đại đang phải đối mặt; một động lực dẫn dắt kết nối thực hành tâm linh và chuyển hóa xã hội. Tuy nhiên, Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản, cũng giống như bối cảnh rộng lớn hơn của Phật giáo Nhật Bản, có một địa hình phức tạp và tinh tế, thường bị hiểu lầm.

Học giả Phật giáo và Phật tử kỳ cựu Jonathan S. Watts đã đảm nhận thử thách to lớn và không đáng ghen tị là xóa tan sự nhầm lẫn này thông qua một nghiên cứu tỉ mỉ và phân tích sâu sắc trong hai tập có tựa đề Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản, đỉnh cao của 16 năm gắn bó với Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản.

Jonathan bắt đầu làm việc tại trụ sở của Mạng lưới Phật tử Nhập thế Quốc tế (INEB) tại Bangkok vào năm 1990, ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Princeton với bằng Cử nhân Tôn giáo So sánh và Khoa học Chính trị. Tại INEB, ông được hướng dẫn bởi Sulak Sivaraksa, một tấm gương tiêu biểu của Phật giáo Nhập thế.

Sau khi chuyển đến Nhật Bản vào năm 1993, Jonathan đã làm việc trong nhiều môi trường Phật giáo khác nhau, bao gồm 19 năm tại viện nghiên cứu của giáo phái Jodo-shu (Tịnh Độ Tông) ở Tokyo, 16 năm gần đây tại Hội Phật giáo Kodo Kyodan
(Hiếu Đạo Giáo Đoàn), và 14 năm gần đây tại Quỹ Zenseikyo và Viện Rinbutsuken (Toàn Quốc Thanh Thiếu Niên Giáo Hóa Hiệp Nghĩa Hội) về Phật giáo Nhập Thế, một tổ chức phi giáo phái được thành lập tại khu vực hậu chiến, chuyên đào tạo các tuyên úy Phật giáo. Ông cũng giảng dạy Phật giáo đương đại tại Nhật Bản và Châu Á tại Đại học Keio từ năm 2008.

Trải qua ba thập niên gắn bó với phong trào Phật giáo nhập thế quốc tế, Jonathan đã tích cực hỗ trợ sự phát triển của Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản và Mạng lưới Phật tử nhập thế Nhật Bản (JNEB). Ông đã góp phần thành lập INEB Think Sangha, một tổ chức tư vấn Phật giáo nhập thế, vào năm 1996, và trở thành thành viên Ban Điều hành của INEB vào năm 1999.

Buddhistdoor Global đã có cuộc trò chuyện với Jonathan để tìm hiểu thêm về Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản và cuốn sách mới ra mắt "Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản".

Tập Một của cuốn Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản, với phụ đề "Lịch sử Phật giáo nhập thế của Nhật Bản từ Cổ đại đến Hiện đại", khám phá một số chủ đề lịch sử quan trọng khiến Phật giáo Nhật Bản trở nên độc đáo và khó hiểu, ngay cả trong cộng đồng Phật giáo quốc tế. Tập đầu tiên này cũng cung cấp một bản tường thuật phê phán và toàn diện về Phật giáo Dấn thân trong thời hiện đại, điều mà cho đến nay vẫn chưa được ghi chép đầy đủ. Tập Hai có phụ đề "Những tấm gương đương đại từ Chăm sóc thân mật đến Đạo đức xã hội", với nhiệm vụ phác họa một bức tranh tiêu biểu về các hoạt động Phật giáo nhập thế mới mẻ và năng động của Nhật Bản trong thế kỷ 21.

Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản, Tập 1: Lịch sử Phật giáo nhập thế của Nhật Bản từ Cổ đại đến Hiện đại hiện đã có mặt trên toàn thế giới, do Nhà xuất bản Sumeru tại Canada xuất bản và phân phối qua các kênh chính thống. INEB cũng đang tổ chức một đợt xuất bản đặc biệt tại Thái Lan để đảm bảo những cuốn sách này dễ tiếp cận và giá cả phải chăng hơn cho độc giả ở Nam Á và Đông Nam Á. Tập 2 dự kiến phát hành vào tháng 9 năm 2023.





BUDDHISTDOOR GLOBAL: Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông thực hiện một dự án sâu sắc và đầy tham vọng như "Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản"?

JONATHAN S. WATTS: Việc chuyển từ Thái Lan sang Nhật Bản vào những năm 1990 cũng giống như việc bị đưa đến vùng lãnh nguyên Alaska về mặt Phật giáo nhập thế —thời điểm đó chưa có nhiều phong trào Phật giáo Dấn thân hoạt động. Tôi đang làm việc tại Viện nghiên cứu Jodo-shu, nơi chúng tôi đã viết một cuốn sách về chăm sóc cuối đời. Ngoài ra, công việc chủ yếu là dịch thuật. Chính tại đây, tôi đã được giới thiệu với Mục sư Shojun Okano vào khoảng năm 2004, và ông muốn xuất bản một cuốn sách về Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản một cách toàn diện và có trách nhiệm. Chúng tôi cảm thấy rằng các bài báo và sách trước đây trong lĩnh vực tiếng Anh chưa được thực hiện đúng cách—mô tả các phong trào Soka Gakkai (Sáng Giá Học Hội) và/hoặc Rissho Kosei-kai như là bộ mặt của Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản, điều mà chúng tôi cảm thấy chưa được đặt đúng bối cảnh.

Mục đích bao trùm của dự án này là viết một cuốn sách “hay” về những gì thật sự đang diễn ra ở Nhật Bản về Phật giáo nhập thế. Mục đích thứ hai là ghi chép lại những gì đang diễn ra ở Nhật Bản từ cơ sở - không chỉ đơn thuần theo dõi hoạt động của các tổ chức lớn. Và thứ ba, mục tiêu cũng là thực sự thúc đẩy Phật giáo nhập thế, điều mà cả tôi và Mục sư Okano đều tin tưởng mạnh mẽ.

Tôi bắt đầu làm việc ở đó vào năm 2006, và chúng tôi mới bắt đầu dấn thân. Về cơ bản, phương pháp của Kodosan được xây dựng dựa trên Tứ Diệu Đế và mở rộng ra là xem xét gốc rễ thật sự của nỗi khổ của người dân Nhật Bản. Cho đến thời điểm đó, rất nhiều hoạt động Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản là viện trợ và công tác từ thiện ở nước ngoài—các trại tị nạn Campuchia, và những hoạt động tương tự. Nhưng đến năm 2006, xã hội Nhật Bản bắt đầu sụp đổ: đây là năm thứ tám liên tiếp có hơn 30.000 vụ tự tử trên toàn quốc, vì vậy đó là một trong những vấn đề đầu tiên chúng tôi nhận thấy, và trong những năm qua, chúng tôi đã phát triển sự hiện diện trên web của JNEB—báo cáo và dịch hầu như mọi thứ, viết các bài báo về những gì đang diễn ra ở Nhật Bản. Chúng tôi đã thực hiện nhiều hoạt động phòng chống tự tử lúc đầu, và sau đó thảm họa Fukushima xảy ra, cùng với một loạt các hoạt động khác, và tôi rất vui khi nhận thấy một loại hình Phật giáo nhập thế mới đang phát triển ở Nhật Bản với một số nội dung thật sự.

Trớ trêu thay, đại dịch COVID-19 đã mang đến cho tôi một khoảng thời gian nghỉ ngơi khỏi công việc hoạt động xã hội, và tôi đã có hai năm cuối cùng để bắt đầu hoàn thiện cuốn sách.

Một trong những vấn đề lớn đối với tôi, khi đến Nhật Bản từ Thái Lan, là ban đầu tôi không thể hiểu hết được Phật giáo Nhật Bản, như tôi nghĩ nhiều người cũng gặp phải: không có nhà sư, các nhà sư có vợ, và họ uống rượu, vậy chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Rồi tôi đến các buổi họp của INEB và mọi người hỏi tôi: "Jon, chuyện gì đang xảy ra với Phật giáo Nhật Bản vậy?" "Chúng tôi không thể hiểu nổi!" "Giải thích cái này và cái kia đi."

Ngay cả trong khu vực Đông Á, người Hàn Quốc và Đài Loan cũng không thể hiểu được. Và đó là một phần lý do tại sao cuốn sách này lại trở thành một tập sách đồ sộ với rất nhiều thông tin lịch sử: bởi vì tôi cảm thấy những chủ đề này cần được viết ra - không chỉ để hiểu Phật giáo Nhật Bản, mà còn để hiểu lịch sử từ góc nhìn Phật giáo nhập thế. Tôi định nghĩa Phật giáo nhập thế là nó có những khía cạnh trường tồn, bắt nguồn từ thời Đức Phật, nhưng nếu bạn thật sự muốn định nghĩa nó, thì nó là thứ bắt đầu từ thời kỳ thuộc địa như một phản ứng đối với chủ nghĩa thực dân ở châu Á.

Tôi đã nghiên cứu rất nhiều về Phật giáo nhập thế khi nó phát triển ở Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19. Kết quả là, một phần ba đầu tiên của Tập Một là lịch sử Phật giáo Nhật Bản với góc nhìn nhập thế. Phần hai là từ đầu thời Minh Trị, tức là từ năm 1865 đến Thế chiến thứ hai, và phần ba là thời kỳ hậu chiến cho đến năm 1998, khi nạn tự tử ở Nhật Bản bắt đầu trở thành một vấn đề nghiêm trọng và chúng ta bước vào kỷ nguyên mới được gọi là "xã hội tách biệt" (mu-en shakai), một xã hội khép kín và cô lập, rất khác so với nước Nhật thịnh vượng thời hậu chiến.

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Có công bằng không khi nói rằng một phần ba cuối của Tập Một đề cập đến Phật giáo nhập thế như chúng ta vẫn thấy ngày nay?

JONATHAN S. WATTS: Về Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản, có. Mặc dù chúng ta vẫn đang so sánh năm 1998 với năm 2023. Những người có thể biết đôi chút về Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản, họ thường nghĩ đến những nhóm tôn giáo mới này, chẳng hạn như Soka Gakkai và Rissho Kosei-kai (Lập Chánh Giao Thành Hội). Nhưng tôi nghĩ rằng hoạt động của họ, mặc dù vẫn đang tiếp diễn, nhưng bắt nguồn rất nhiều từ thời kỳ hậu chiến thịnh vượng đó, bởi vì hầu hết các hoạt động của họ tập trung vào việc kiến ​​tạo hòa bình và hòa bình quốc tế.

Có một nhóm, Nipponzan Myohoji (Nhật Bản Sơn Diệu Pháp Tự) thật sự đi theo con đường Phật giáo nhập thế và họ đã ở đó ngay từ đầu ở Nhật Bản, mặc dù họ là một cộng đồng Phật giáo rất nhỏ và không thật sự có mức tài trợ tương đương, vì vậy họ không được biết đến nhiều.

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Đâu là một số thách thức quan trọng nhất mà các nhà sư Phật giáo dấn thân xã hội phải đối mặt trong việc định nghĩa lại Phật giáo Nhật Bản?

JONATHAN S. WATTS: Theo tôi, xét trên nhiều phương diện, Phật giáo nhập thế xã hội là một cách để định nghĩa lại Phật giáo trong thời đại hiện đại. Đó là một trong những khía cạnh tôi xem xét khi giảng dạy: Phật giáo nhập thế xã hội không chỉ là một phong trào tham gia vào xã hội; nó còn là một phong trào cải cách nội bộ. Khi nghe Sulak Sivaraksa, người sáng lập INEB, thuyết giảng, bạn sẽ thấy ông ấy chỉ trích Phật giáo Thái Lan truyền thống. Tương tự, nhà sư Thái Lan có ảnh hưởng và sáng tạo, Buddhadasa Bhikkhu, cũng rất phê phán Phật giáo Thái Lan truyền thống, cho rằng Phật giáo Thái Lan cần được cập nhật để phù hợp với người dân.

Phật giáo Nhật Bản, đặc biệt là các giáo phái truyền thống, đã bị gạt ra bên lề sâu sắc trong thời kỳ hậu chiến, và Nhật Bản đã trở thành một xã hội rất thế tục—tôi nghĩ rằng vì sự tham gia của tôn giáo vào chiến tranh, nhiều người thật sự mất niềm tin vào các tôn giáo truyền thống và các giáo phái Phật giáo, và các nhà sư bắt đầu kiếm được rất nhiều tiền từ việc cử hành tang lễ. Một thuật ngữ mới đã xuất hiện: Phật giáo tang lễ. Và vì điều này, các nhà sư Phật giáo đã bị nhìn nhận theo một cách tiêu cực rõ rệt, chỉ xuất hiện, cử hành tang lễ và kiếm tiền, rồi lái xe hơi đẹp, uống rượu và chơi golf. Và do đó, Phật giáo nhập thế, theo một cách nào đó, cũng là một nỗ lực cải cách Phật giáo Nhật Bản, để xem xét vấn đề liệu chúng ta sẽ có một phong trào tu viện nữa không? Các nhà sư Nhật Bản có cố gắng trở thành nhà sư một lần nữa không? Bạn có thể đưa con mèo trở lại túi không? Tôi không nghĩ là có thể.





Về cơ bản, 98 phần trăm tu sĩ Nhật Bản đã kết hôn, uống rượu và không tuân theo giới luật tu viện, nhưng Phật giáo nhập thế là một cách thực hành khác, một cách phục hưng đời sống tu sĩ của cư sĩ tại gia, mà theo nhiều cách thật sự là tinh thần cổ xưa của Phật giáo Nhật Bản ngay từ đầu—nó nhấn mạnh đến sự cam kết của Bồ tát và thực hành Bồ tát thế tục hơn không bị ràng buộc trong chủ nghĩa tu viện truyền thống.

Sila hay giới có thể được hiểu là quy tắc kỷ luật tu viện, nhưng nó cũng biểu thị phẩm hạnh và đạo đức. Trong Phật giáo cổ điển, Nguyên thủy, sila thường mang nghĩa tiêu cực: không làm điều này, tránh điều kia, nhưng trong Đại thừa, nó được xem là tích cực: bạn có thể làm gì? Vì vậy, đây là cách để các nhà sư cố gắng hòa nhập lại với xã hội và được xã hội tôn trọng thông qua những gì họ làm.

Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản, Tập 2, bao gồm tất cả các nghiên cứu điển hình—bạn biết đấy, phong trào phòng chống tự tử và các nhà sư làm điều đó. Họ nhận được sự tôn trọng to lớn vì họ không nhận bất kỳ khoản tiền nào cho công việc này. Họ làm việc hoàn toàn tự nguyện, vận hành đường dây nóng và mở cửa chùa cho những người thật sự bị rối loạn tâm thần. Vì vậy, theo nhiều cách, con đường này là một cách để định nghĩa lại sự thánh thiện của các nhà sư Phật giáo Nhật Bản, mà không bị sa lầy vào ý tưởng rằng họ cần phải trở thành nhà sư một lần nữa.

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Ông có thể nói thêm về vai trò của giới tính trong bối cảnh này không? Nó đã diễn ra như thế nào trong Phật giáo nhập thế của Nhật Bản?

JONATHAN S. WATTS: Vâng, đây thật sự vẫn là vấn đề nan giải, và sẽ là trọng tâm trong lời bạt của tôi trong Tập Hai. Có rất nhiều phụ nữ xuất hiện trong tập hai với tư cách là Phật tử nhập thế, nhưng bản thân vấn đề giới tính thật sự vẫn chưa được giải quyết trực tiếp. Một trong những vấn đề lớn nhất là hầu hết phụ nữ Phật giáo ở Nhật Bản là vợ của các nhà sư, và họ có một địa vị rất mơ hồ, thường không được xác định rõ ràng vì họ không phù hợp với giáo lý. Phật giáo Nhật Bản đang mắc kẹt trong kiểu tiêu chuẩn kép về giáo lý này - đối với các giáo phái Jodo Tịnh Độ thì điều này phù hợp hơn với giáo lý của họ, nhưng đối với Thiền tông thì không. Vì vậy, về mặt giáo lý và pháp lý, những người phụ nữ này gần như không được chú ý, mặc dù họ thường điều hành các ngôi chùa cũng như chồng của họ.

Tôi hy vọng vấn đề này sẽ trở thành động lực tiếp theo. Thật thú vị, bởi vì chúng ta có thể thấy nhiều nhóm Phật tử ở nhiều quốc gia đang hưởng ứng phong trào Mục tiêu Phát triển Bền vững (SGD-Sustainable Development Goals) và Nhật Bản cũng đang hưởng ứng mạnh mẽ. Phật tử Nhật Bản rất thích hưởng ứng các phong trào xã hội, và họ đang hưởng ứng SGD, nhiều người trong số họ hoàn toàn không phê phán, nhưng điều này có thể được sử dụng như một phương tiện tạm thời bởi vì một trong những khía cạnh chính của SGD là bình đẳng giới và trao quyền. Nhật Bản (và Hàn Quốc) được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp hạng thấp, một cuộc thăm dò ý kiến như một phần của Báo cáo Khoảng cách Giới tính Toàn cầu thường niên, vì vậy hy vọng đây là một vấn đề đang thu hút được sự chú ý.

Một trong những lý do khiến hệ thống tăng lữ Nhật Bản trở nên như hiện nay là vì vào đầu thời kỳ Minh Trị
*2, chính phủ Nhật Bản muốn tạo ra các gia đình hạt nhân dị tính cho công nghiệp hóa, và chùa Phật giáo được cho là hình mẫu của gia đình hạt nhân dị tính này. Và vì những ngôi chùa này được truyền lại theo chế độ nam giới kế vị, nên việc nam tăng lữ lấy vợ và sinh con trai là rất quan trọng. Nhưng giờ đây, có một số tăng lữ lại nói rằng, "Chà, có lẽ tôi sẽ không kết hôn...". Và khi chúng ta bước vào giai đoạn tiến hóa hậu hiện đại của xã hội Nhật Bản, gia đình hạt nhân dị tính không còn là chuẩn mực nữa. Tôi nghĩ các ngôi chùa sẽ bắt đầu thay đổi để phản ánh xu hướng xã hội này. Và tôi nghĩ cùng với điều này, chúng ta sẽ thấy vấn đề giới tính ngày càng trở nên nổi bật hơn.

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Vậy chúng ta có thể mong đợi thấy nhiều phụ nữ hơn trở thành những người lãnh đạo trong lĩnh vực và thực hành Phật giáo nhập thế không?

JONATHAN S. WATTS: Vâng, tôi nghĩ là ở khắp mọi nơi, bởi vì một trong những điều đã xảy ra là, với tỷ lệ sinh cực kỳ thấp ở Nhật Bản, rất nhiều gia đình tu hành chỉ có một con, và đó là con gái. Và đôi khi con gái sẽ kết hôn với một người đàn ông, người sau đó sẽ trở thành tu sĩ, nhưng đôi khi điều đó không xảy ra. Vì vậy, trong một số giáo phái, đặc biệt là những giáo phái ít tập trung vào tu viện, như Thiền tông, các giáo phái Tịnh độ, tôi biết một số ngôi chùa mà vị phó trụ trì, người sau này sẽ trở thành trụ trì, là một phụ nữ. Vì vậy, ngày càng có nhiều phụ nữ trở thành trụ trì, chỉ là mặc định.

Xét theo những xu hướng này, vấn đề tình dục và giới tính dễ được đàm phán hơn nhiều ở Nhật Bản so với nhiều nơi khác trên thế giới Phật giáo—như bạn biết đấy, giới Phật giáo ở Thái Lan thậm chí còn không thích ý tưởng về các tỳ kheo ni, chứ đừng nói đến ý tưởng về các ngôi chùa do các tỳ kheo ni điều hành.

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Trong quá trình nghiên cứu cho cuốn "Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản", ông có nhận thấy bất kỳ xu hướng mới nổi hay lĩnh vực tiềm năng tăng trưởng và đổi mới nào khác trong lĩnh vực này không?

JONATHAN S. WATTS: Một trong những chủ đề lớn mà tôi tập trung vào trong cả hai tập sách là cốt lõi của Phật giáo nhập thế, tức là giải quyết vấn đề bạo lực hệ thống và thay đổi hệ thống. Hầu hết Phật giáo nhập thế của Nhật Bản kể từ khi chiến tranh kết thúc, và thậm chí cho đến tận bây giờ, đều là những gì Sulak Sivaraksa gọi là công tác phúc lợi xã hội, hay đôi khi là "Phật giáo tốt bụng!". Tôi nghĩ rằng đây là một xu hướng phổ biến hơn ở các hình thức Phật giáo nhập thế tại Đông Á. Họ làm công tác cứu trợ và viện trợ "tốt đẹp", nhưng không ai trong số họ lên tiếng về các chính sách kinh tế hay hệ thống chính trị, hay những thứ tương tự, và họ cũng không khám phá các hình thức phát triển xã hội mới, như chúng ta thấy ở Đông Nam Á. Đó là một vấn đề lớn đối với Nhật Bản bởi vì người dân Nhật Bản, hơn bất kỳ quốc gia Đông Á nào khác, có xu hướng giữ im lặng và không lên tiếng chỉ trích hệ thống.

Tôi nhìn vào những vấn đề bắt đầu từ thời Minh Trị, và tôi phải tự hỏi: đạo đức xã hội Nhật Bản là gì? Họ không phải là Phật giáo, bởi vì hầu hết mọi người ở đất nước này không biết pancasila (tiếng Phạn, tiếng Pali: năm giới) là gì. Mọi người không biết đạo đức Phật giáo là gì. Đạo đức xã hội ở đây về cơ bản là một loại Nho giáo, một loại Nho giáo rất độc đoán trong đó bạn chỉ cần tuân theo bất kỳ ai là người đứng đầu tổ chức, phòng ban hoặc cộng đồng của bạn. Và điều này kết hợp với chủ đề lâu đời về tính gia tộc của Nhật Bản, trong đó mọi người rất hướng đến nhóm, trong khi đạo đức Phật giáo đề cập đến tất cả chúng sinh: hãy quan tâm không chỉ đến những người trong nhóm của bạn, mà ở mọi nơi.

Một trong những điều đã xảy ra với sự sụp đổ này trong xã hội Nhật Bản—tỷ lệ sinh thấp, tỷ lệ tự tử cao, và tình trạng mất việc làm suốt đời (hiện nay gần 40% người Nhật làm việc bán thời gian)—là mọi người đang mất đi cộng đồng của mình, vì vậy, việc vượt ra khỏi cộng đồng của chính mình là một nhu cầu cấp thiết. Và điều chúng ta đang thấy ở những Phật tử nhập thế mới này là họ đang tiếp cận những người đã bị xã hội ruồng bỏ, những người không được ai quan tâm, và những người đã bị cộng đồng ruồng bỏ. Vậy thì, đây chính là sự hồi sinh của một loại đạo đức xã hội Phật giáo, và là một phần của sự chuyển dịch lớn hướng tới công bằng xã hội, một khái niệm vốn đã yếu kém ở Nhật Bản.

Vậy nên, theo tôi, đây chính là ranh giới cuối cùng để công việc đang được thực hiện ở đây có ý nghĩa hơn nữa. Hiện tại, có rất nhiều việc thật sự tốt đang được thực hiện, nhưng lại không có nhiều phê bình về mặt hệ thống. Chúng ta có rất nhiều linh mục đang nỗ lực ngăn ngừa tự tử, nhưng chẳng ai thắc mắc: "Sao ai cũng muốn tự tử thế nhỉ? Có lẽ chúng ta nên giải quyết tận gốc rễ chứ không chỉ các triệu chứng."

BUDDHISTDOOR GLOBAL: Ông có thể chia sẻ về thông điệp hoặc tác động mà ông hy vọng bài phân tích chuyên sâu gồm hai tập này sẽ mang lại không? Ông muốn mọi người rút ra điều gì từ những câu chuyện và hiểu biết mà ông chia sẻ?

JONATHAN S. WATTS: Đặc biệt đối với Tập Một, tôi xin dành tặng tất cả các INEB*1 kalyana-mitra [những người bạn tâm linh] của tôi và tất cả những câu hỏi của họ về Phật giáo Nhật Bản—tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp hé lộ một số bí ẩn đó và cũng mang lại một cảm giác tôn trọng mới. Trong nhiều năm, tôi là một trong số nhiều người phản đối, cho rằng Phật giáo Nhật Bản là một mớ hỗn độn thối nát của những người không phải là nhà sư, nghiện rượu. Nhưng khi chúng ta hiểu được lịch sử, chúng ta có thể hiểu được chiều sâu của thực tế. Tất nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề, với thực tế là có rất ít nhà sư—ví dụ như không có ai giống như Hòa thượng Pomnyun Sunim ở Hàn Quốc, điều này khiến các nhà sư Phật giáo ở đây không thể trở thành những nhà lãnh đạo xã hội quan trọng.

Tập Một mở đầu bằng một đoạn trích ngắn về một cuộc họp của INEB Đông Á, với người Đài Loan và Hàn Quốc có phần coi thường Phật giáo Nhật Bản. Nhưng rồi họ gặp những vị sư đang làm công tác phòng chống tự tử, và chúng tôi đã dành một buổi tối đi quanh phố để phát thức ăn cho người vô gia cư, và họ đã thốt lên, "Trời ơi, các nhà sư của chúng ta không thể gần gũi với người dân như thế này vì bức tường ngăn cách giữa tu sĩ và cư sĩ." Vậy là người Nhật, theo nhiều cách, đã nhận ra ý nghĩa của việc trở thành Bồ tát tại gia. Tôi hy vọng mọi người sẽ có một sự tôn trọng mới đối với điều đó.

Và dĩ nhiên, tôi muốn cung cấp một cái nhìn sâu sắc hơn về Phật giáo Nhật Bản, vốn khá mơ hồ và khó nắm bắt từ bên ngoài—Tập Hai đặc biệt khám phá những con người phi thường đang làm những công việc thật sự tuyệt vời ở cấp cơ sở. Công việc tốt nhất là được thực hiện ở cấp cơ sở, chứ không phải bị nhồi nhét trong các trụ sở giáo phái, vốn có thể rất kém hiểu biết, nhưng họ lại là những người được quảng bá rộng rãi nhờ có ngân sách quảng cáo.

Tôi hy vọng rằng, với tư cách là một trong những mục đích chính của cuốn "Phật giáo nhập thế tại Nhật Bản", độc giả có thể hiểu rõ hơn về loại hình tham gia của các nhóm được biết đến rộng rãi hơn—không phải để phủ nhận những điều tốt đẹp họ đã làm, mà là để có được cái nhìn phê phán hơn về những gì họ đã và đang làm, và từ đó hiểu rõ hơn về Phật giáo nhập thế đúng với ý nghĩa của nó: đó không chỉ là phúc lợi xã hội, mà là sự chuyển đổi xã hội. Tất nhiên, Phật giáo nhập thế cũng bao gồm việc chuyển đổi vị trí của chính mình trên thế giới trước tiên, cũng như việc ra ngoài và giúp đỡ người khác./.


***

Phụ Thích:
*1 -Năm 1989, Mạng lưới Phật tử nhập thế Quốc tế (INEB-International Network of Engaged Buddhists) được thành lập tại Xiêm (Thái Lan) bởi Sulak Sivaraksa và một nhóm các nhà tư tưởng Phật giáo và phi Phật giáo, cũng như các nhà hoạt động xã hội. INEB hoạt động như một tổ chức tự trị thuộc Quỹ Sathirakoses-Nagapradipa có trụ sở tại Bangkok. Qua nhiều năm, mạng lưới đã mở rộng, bao gồm các thành viên, cả cá nhân và tổ chức, đến từ hơn 25 quốc gia trên khắp Châu Á, Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc. Từ sự đa dạng này, một khái niệm về Phật giáo nhập thế Xã hội đã hình thành, kết hợp việc thực hành Phật giáo với các hoạt động xã hội vì một thế giới lành mạnh, công bằng và hòa bình.
https://en.m.wikipedia.org/wiki/International_Network_of_Engaged_Buddhists
*2- Tháng tư năm 1871, niên hiệu Minh Trị thứ ba, theo lệnh của Thiên hoàng, mọi tăng ni bị ép buộc phải ăn mặn, không được cạo trọc đầu, lại còn phải kết hôn giống như người bình thường. Năm tháng sau, Thiên hoàng lại hạ lệnh không cho sư sãi lấy họ "Thích" như sư sãi ở các nước khác, mà phải dùng họ do cha mẹ đặt.
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Thiên_hoàng_Minh_Trị
*3-Tựa đề
: Tái sinh và Cách mạng:
Tái sinh: sự hồi sinh của Phật giáo Nhật Bản sau thế chiến thứ 2.
Cách mạng: phong trào Phật giáo Nhập Thế ở Nhật Bản.
https://www.buddhistdoor.net/features/rebirth-and-revolution-engaged-buddhism-in-japan-a-conversation-with-jonathan-watts/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét