Ở Dharamsala, trong những người Tây Tạng lưu vong, chúng
ta đi gặp người này, một con người trọn vẹn mà chỉ tiếp cận với người ấy có thể
thay đổi chúng ta. Đó là kinh nghiệm được liên hệ bởi nhà tâm lý học nổi tiếng
Paul Ekman: khi ông bắt tay Đức Đạt Lai Lạt Ma, ông nói rằng ông có cảm giác
ông đang "chạm" lòng từ bi. Ông khám phá rằng sự ân cần có thể
"sờ mó" được, và đời sống của ông đã được chuyển hóa bởi kinh nghiệm
này.Quá khứ cá nhân của Ekman được đánh dấu bởi thời thơ ấu khó khăn, trang bị
cho ông những cảm giác của sân hận và phẩn uất. Sau khi gặp gở Đức Đạt Lai Lạt
Ma, ông tìm thấy sức mạnh của sự tha thứ và không bao giờ phát sinh sân hận một
lần nữa. Đã trở thành một người khác, ông tự hỏi về sự biến thái này. Ông đi đến
kết luận rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể làm cho những người khác tốt lành hơn bởi
vì trong phạm vi của sự thiền quán thường nhật, ngài cũng hoàn toàn tưới tẩm
tâm thức của ngài trong từ ái và bi mẫn cho nên ngài có thể trao truyền những
phẩm chất này một cách trực tiếp đến những
người khác.
Để gặp Tenzin Gyatso, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ
mười bốn, chúng ta đi đến bang Himachal Pradesh của Ấn Độ. Cũng được gọi là
"Vùng đất của Chư Thiên", vùng này ở Tây Bắc Ấn Độ trải dài đến chân
núi của dãy Hy Mã Lạp Sơn, những vùng mà đỉnh núi được bao phủ bởi tuyết trắng
trong những tầng ở trên bình nguyên Kangra. Kangra một lần đã là thành phố của
những đại vương (maharajas) và ngã tư của những nền văn hóa Ấn Độ - Moghul,
Sikh, rồi Anh Quốc, và cuối cùng là Tây Tạng.
Về địa lý chúng ta ở Ấn Độ, nhưng về tâm linh chúng ta ở
trong lãnh địa của Tây Tạng. Tại những không gian thông thường, thung lũng vang
dội với lời kêu gọi sâu lắng từ những âm thanh của nghi lễ Tây Tạng: radong [kèn
khổng lồ kêu như voi rống], gyaling [như kèn cổ truyền Việt Nam], và kangling [kèn
làm từ một lóng xương ống]. Trong những nhạc cụ này, có thứ thường được làm từ
những xương của một con bò bướu trẻ (Brahman), những tu sĩ trên Nóc Nhà Thế Giới
đã trích ra những âm thanh uy nghiêm, cao vút để khai mở tâm thức đến những
không gian thiêng liêng. Cầu nguyện có mặt
ở mọi nơi, được thì thầm bởi những người hành hương tay lần chuỗi hạt, được chạm
khắc trên những bức tường nhà, được in bằng mực đen trên những tấm vải vuông của
bốn đại và cột vào những cột trụ. Gió thổi qua những mẫu tự thiêng liêng và
mang chúng đi đến những không gian xa xôi rộng lớn, truyền đi những sự gia hộ đến
tất cả chúng sanh mà nó chạm đến.
Khu cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma được xây dựng trên đỉnh
một ngọn đồi nhìn khắp vùng McLeod Ganj. Đồi trạm này được đặt tên của một Thống
đốc người Tô Cách Lan của bang Punjab, được sử dụng như trại nghĩ hè của những
viên chức hoàng gia Anh Quốc; ngày nay nó đã trở thành một "tiểu
Lhasa". Đó là ngôi nhà của hơn mười nghìn người - một phần tư là tăng ni -
sống trong những tu viện được sơn màu đất vàng hay nâu đỏ và chen chúc nhau
trên những chân đồi cao của rặng Dhauladhar. Nhiều khách sạn rải rác khắp vùng,
vì mọi người đến từ khắp nơi trên thế giới đến để viếng thăm thị trấn này với
những con đường nhỏ và dốc của nó, họ đến để thấm nhuần những giáo huấn của Đức
Đạt Lai Lạt Ma ban bố trong Đại Cầu Nguyện Pháp Hội (Great Monlam), lễ hội của
những lời cầu nguyện ngưỡng vọng bắt đầu ở Lhasa trong tháng đầu tiên của lịch
Tây Tạng. Truyền thống đã được tiếp tục trong lưu vong, hấp dẫn không chỉ hàng
trăm người viếng thăm Tây Tạng mà cả đến những người Âu châu, Úc châu, và Mỹ
châu. Họ đến như những người hoặc là Phật tử hay quan sát viên tò mò, và đến với
họ là những người Á châu từ Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Việt Nam, Mã Lai,
Singapore, Hồng Công, và Đài Loan. Với việc phục hồi giới luật tu sĩ ở Mongolia
và và những nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ như Kalmykia, Buriatia, và Tuva, những
nhóm từ Trung Á cũng đã đến hơn một thập niên qua để tỏ lòng tôn kính với Đức Đạt
Lai Lạt Ma.
Trên khu cư trú
vây quanh bởi những cây sồi, cây vân sam, và cây tuyết tùng Hy Mã Lạp Sơn với những
bóng cây mảnh khản, tráng lệ, những con đại bàng trắng mõ vàng lượn vòng, cùng
với những con diều và những con chim ăn thịt khác. Những con chim sải cánh từng
đôi, một con đại bàng và một con quạ bay với nhau, tạo thành những vòng cung chớp
nhoáng trên bầu trời, lên và xuống với vận tốc chóng mặt.
Đó là vào tháng Hai năm 2008, chỉ trước tết Tây Tạng,
Losar, ngày đầu tiên của năm âm lịch. Vào sáng sớm, những tu sĩ Tây Tạng với áo
quần sặc sở biểu diễn những điệu múa cham, nghi lễ nhằm mục đích xua tan những
tiêu cực của năm cũ và để tránh những linh thức xấu ác. Đức Đạt Lai Lạt Ma,
trong khóa tu, chỉ cho phép một vài cuộc phỏng vấn. Một nhóm tu sĩ Mongolia tập
họp trước chung quanh cửa ra vào khu vực biệt điện trong những y áo nghi lễ dệt
bằng lụa thổ cẩm với trang sức bạc.
Theo lịch sử, những người mãnh liệt này đã bảo vệ Đức Đạt
Lai Lạt Ma chống lại người Mãn Châu xâm nhập; những vị Khan - vua Mông Cổ - này
đã thề bảo vệ chủ quyền của Nóc Nhà Thế Giới, người họ xem như lãnh đạo tinh thần
của họ. Ở Mongolia ngày nay Phật Giáo đã hồi sinh, những chùa viện bị tàn phá
trong những thập niên cộng sản đã được hồi phục. Nhưng chỉ có một phần năm dân
số Mongolia là người Mông Cổ - đa số là người Hoa. Đây là hoàn cảnh mà Đức Đạt
Lai Lạt Ma lo ngại cho quê hương của ngài. Tây Tạng trong thực tế bị sự tấn công
dân số của người Hán và bị buộc đồng hóa.
Những người Mongolia đã phải đi ra, với đôi mắt đẫm lệ của
họ, sau khi dâng cúng vị lãnh đạo tinh thần một kata, khăn choàng nghi lễ, được
làm bằng lụa xanh và thêu tám biểu tượng cát tường. Vị thư ký riêng của Đức Đạt
Lai Lạt Ma, Tenzin Taklha, gọi tôi khi Đức Thánh Thiện ra dấu bằng đôi tay của ngài, mời tôi đến với ngài mà không còn chuyện
gì làm trong phòng phỏng vấn. Những cửa sổ màu hồng rộng mời bầu trời vô tận vào
căn phòng dài được trang bị khiêm tốn, những bức tường phủ đầy những tranh thangka,
những bức họa vải trình bày những hình ảnh của những bậc đại bi Giác Ngộ.
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về ngài trong riêng tư, cũng với
sự vui vẻ, tự nhiên, giản dị như ở trên diễn đàn quốc tế. Sự vui tươi lây lan của
ngài có thể nhanh chóng nhường cho nổi buồn khi những khổ đau của thế giới được
đề cập: "Nhiều Đức Phật đã đến trong chúng ta, tuy thế loài người tiếp tục
khổ đau. Đó là thực tế của cõi luân hồi.
Đó không phải là sự thất bại của chư Phật, nhưng là do con người không đem giáo
huấn vào thực tập."
Ẩn Tâm Lộ, Saturday, January 09, 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét