Đời Sống Mỗi Ngày
Của Tôi
NHỮNG NGÀY TRONG ĐỜI TÔI bắt đầu vào khoảng ba đến ba giờ
rưởi sáng. Khi thức dậy, tôi nghĩ về Đức Phật, và tôi trì tụng những lời tán
thán được viết bởi đại hiền nhân Ấn Độ, Long Thọ. Tôi đọc lời cầu nguyện nằm xuống,
hai tay chấp lại, nửa tôn kính, nửa như ngủ, …
Như một tu sĩ hành giả, ngay khi thức dậy tôi tỏ lòng quy
kính Đức Phật, và tôi cố gắng để chuẩn cho tâm tư tôi vị tha hơn, từ bi hơn,
trong ngày ấy để tôi có thể làm lợi ích cho chúng sanh. Rồi tôi tập thể dục -
tôi đi trên máy đi bộ treadmill.
Khoảng năm giờ tôi ăn điểm tâm; sau đó tôi có thêm vài buổi
thiền tập nữa, và tôi trì tụng cho đến tám hay chín giờ. Sau đó tôi thường đọc
báo, nhưng đôi khi tôi cũng đi vào phòng
phỏng vấn cho những cuộc hội kiến. Nếu không có chuyện gì khác để làm, chính yếu
tôi học tập kinh điển mà những vị thầy đã dạy cho tôi trong quá khứ, nhưng tôi
cũng đọc một số sách vở mới đây.
Sau đó tôi thực tập thiền phân tích về lòng vị tha, mà
tôi gọi là bodhicitta, hay "tâm giác ngộ", tâm bồ đề, trong thuật ngữ
Phật Giáo. Tôi cũng thiền quán về tánh không. Tâm giác ngộ và tánh không là những
để mục thiền quán quan trọng nhất trong sự thực tập hàng ngày của tôi, vì chúng
sẽ hổ trợ tôi suốt cả ngày. Bất cứ khó khăn gì, những sự kiện buồn, hay tin tức
xấu có thể hiện lên, những thiền quán này cho phép tôi ổn định tâm thức tôi một
cách sâu sắc và hổ trợ nó từ bên trong.
Sau buổi ăn trưa, tôi trở lại phòng phỏng vấn cho những
buổi hội kiến khác. Vào lúc này [tết Tây Tạng], hầu như mỗi tuần, tôi tiếp những
người Tây Tạng vừa mới đến từ quê hương Tuyết Sơn.
Khoảng năm giờ là thời uống trà buổi chiều của tôi. Như một
tu sĩ Phật Giáo, tôi không ăn tối. Nếu đói bụng, tôi nhẫm một miếng bánh ngọt,
thỉnh cầu Đức Phật tha thứ. Sau đó tôi tận tụy cho những buổi cầu nguyện và thiền
tập nữa…
Khoảng bảy hay tám giờ tôi đi ngủ - không phải không có sự
thẩm tra lại những gì tôi đã làm suốt trong ngày trước. Nhiều đêm tôi đã ngủ bảy
hay chín giờ đồng hồ. Đó là lúc tuyệt vời nhất! Hoàn toàn thư giản … (Cười).
Tôi Được Sinh Ra
Vào Ngày Năm Tháng Năm
TÔI ĐƯỢC SINH RA VÀO ngày năm tháng Năm, năm Con Heo Gỗ của
lịch Tây Tạng, hay sáu tháng Bảy năm 1935, của Dương Lịch. Tôi được đặt tên là
Lhamo Thondup, có nghĩa là, "Thiên nữ, người hoàn thành mọi ước nguyện."
người Tây Tạng đặt tên người, nơi chốn, và sự vật thường nghe rất tượng hình
khi được phiên dịch. Tsangpo, thí dụ thế, tên của con sông lớn nhất ở Tây Tạng
- sẽ trở thành dòng Brahmaputra dễ sợ ở Ấn Độ - có nghĩa là "Người Làm Cho
Trong Sạch".
Tên của ngôi làng tôi là Takster, hay "Tiếng Rống của
Cọp". Khi tôi là một đứa bé, đó là
một làng xã nhỏ nghèo, ở trên đồi nhìn xuống một thung lũng rộng. Đất đai không
phải để cho những nông dân mà cho những
người du mục, do bởi thời tiết không thể dự đoán được trong vùng. Khi
tôi còn nhỏ, gia đình tôi, cùng với khoảng hai mươi gia đình khác, kiếm được ít
ỏi cho cuộc sống trên vùng đất này.
Takster tọa lạc ở vùng cực đông bắc của xứ sở, trong tỉnh
Amdo. Ngôi nhà mà tôi sinh ra là đặc thù của vùng đó ở Tây Tạng - được xây dựng
bằng đá và đất, với nóc bằng phẳng. Những máng xối làm bằng nhánh cây bách xù
xoi thủng đến đường nước mưa, đó là vật liệu bất thường trong khối kiến trúc
đó. Ngay phía trước căn nhà, giữa hai cánh là một sân nhỏ, giữa sân, là một trụ cao để treo lá cờ với
nhiều lời cầu nguyện được đính vào.
Thú vật được nhốt phía sau nhà, vốn có sáu phòng: nhà bếp,
nơi mà hầu như chúng tôi dành nhiều thời gian nhất trong mùa đông, phòng cúng
kiến với một bàn thờ nhỏ, nơi mà tất cả
chúng tôi tập họp vào buổi sáng để cúng dường; phòng ngủ của cha mẹ tôi; một
phòng khách; một kho chứa những vật thực, và cuối cùng là chuồng cho thú vật.
Trẻ con không có phòng riêng cho chúng. Như một bé con,
tôi ngủ với mẹ tôi, và sau đó trong nhà bếp, gần lò lửa. Chúng tôi không có ghế
hay giường, nói một cách chính xác, nhưng có những tấm gỗ phẳng được dựng lên để
ngủ trong phòng cha mẹ tôi và trong phòng khách. Chúng tôi cũng có vài thùng gỗ,
được sơn màu sắc sáng chói.
Tôi Có Thể Nhìn Thấy
Những Tâm Hồn Khiêm Hạ Nhất
GIA ĐÌNH TÔI SỐNG trong một vùng rất xa xôi hẻo lánh.
Sining, thủ phủ của Amdo, là thị trấn gần nhất, nhưng cũng phải mất ba giờ đồng
hồ đi bằng ngựa hay lừa để đến đấy. Làng chúng tôi rất nghèo, chỉ có thể nói lời
cảm ơn người anh tôi, người được nhìn nhận là một vị lạt ma tái sanh từ đại tu
viện Kumbum, đó là điều chúng tôi hơi hơn những người khác.
Tôi luôn luôn vui thích với sự nguyên sơ của tôi. Nếu tôi
được sanh ra trong một gia đình giàu có hay danh giá, thật khó để tôi chia sẻ
những sự quan tâm cho những người Tây Tạng giản dị. Những năm tháng thơ ấu của
tôi ở Takster có một ảnh hưởng sâu sắc với tôi. Chúng cho phép tôi nhìn thấy
vào trong những tâm hồn khiêm hạ nhất, để đồng cảm với họ, khi tôi cố gắng để
làm cho những điều kiện sống của họ tốt đẹp hơn.
Tôi có nhiều anh chị em; mẹ tôi sinh ra mười sáu đứa con
trong thế giới này, nhưng chỉ có bảy đứa sống còn. Chính là người chị tôi đã
giúp mẹ tôi khi tôi được sinh ra, vì lúc ấy chị đã mười chín tuổi. Chúng tôi rất
gần gũi với nhau, và có rất nhiều niềm vui trong đời sống khó khăn ấy.
Cha mẹ chúng tôi là những nông dân nhỏ, nói một cách
nghiêm túc, nhưng không phải là những bần nông, vì họ mướn một thửa đất đai cho
chính họ. Lúa mạch và lúa mạch đen là những hạt chính ở Tây Tạng. Gia đình tôi gieo
trồng chúng, cùng với khoai tây. Nhưng nhiều khi nổ lực cả năm bị tiêu tan bởi
những trận mưa bảo hay khô hạn.
Chúng tôi cũng có một ít gia súc, là một nguồn lợi đáng
tin cậy hơn. Tôi nhớ năm hay sáu con dzomo (thú lai giữa yak và bò), mà mẹ tôi
thường vắt sửa. Ngay khi tôi đứng được trên bàn chân tôi, tôi liền đi với mẹ
tôi đến chuồng thú. Trong áo tôi, tôi mang theo một cái chén, và bà sẽ đổ sửa
vào, vẫn còn ấm, ngay trong ấy.
Chúng tôi cũng có một đàn thú nuôi khoảng tám mươi con, cả
cừu và dê, và cha tôi luôn luôn có một hay hai con ngựa, đôi khi ba con ngựa, mà
ông rất gắn bó. Trong vùng này, ông có tiếng là biết chăm sóc ngựa và thậm chí
biết chửa trị chúng nếu gặp dịp.
Cuối cùng, gia đình tôi nuôi hai con tuyết ngưu (yak), là
tặng phẩm của thiên nhiên cho loài người, vì chúng có thể sống còn ở một độ cao
trên mười nghìn bộ. Chúng tôi cũng nuôi những con gà mái để lấy trứng, mà tôi
chịu trách nhiệm để lùa chúng vào chuồng. Tôi thường tự thích thú bằng việc leo
lên ổ gà, mà ở đấy tôi thích ngồi trên cao và túc túc như một con gà mái!
Cha Mẹ Tôi Không
Bao Giờ Nghĩ Tôi Có Thể Là Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Mười Bốn
CHÍNH MẸ TÔI đã nhắc tôi về những ký ức hai năm đầu trong
đời tôi. Bà ngạc nhiên khi nghe tôi lập đi lập lại rất sớm: "Tôi đến từ
vùng trung Tây Tạng, tôi phải trở lại đấy! Tôi sẽ đem cả nhà đi với tôi."
Và trò chơi thích thú của tôi là khăn gói đồ đạc của tôi; sau đó tôi sẽ nói lời
giả biệt với mọi người và giả vờ ra đi, ngồi dạng chân như cởi ngựa. Thân quyến
tôi nghĩ đó là trò chơi của trẻ con, và không ai chú ý đến. Chỉ sau này chính mẹ
tôi mới nghĩ rằng tôi có một trực giác về số phận nào đó sẳn dành cho tôi.
Thành thật mà nói, cha mẹ tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi
có thể là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Vài tháng trước khi tôi ra đời, cha
tôi đau khổ với cơn bệnh kỳ lạ làm ông mất ý thức nhiều lần và những cơn chóng
mặt lập đi lập lại, cho đến cuối cùng ông phải nằm liệt giường để lại tất cả
công việc nhà cho một bà bầu. Một cách kỳ lạ, vào buổi sáng tôi ra đời ông cảm
thấy được chửa trị, ngồi dậy như không khỏe mạnh, và đọc lời cầu nguyện, giống
như ông chưa từng bệnh tật. Khi ông biết là con trai ông vừa được sinh ra vào
lúc bình minh ngày may mắn ấy, ông nói với mẹ tôi rằng đứa bé này chắc chắn
không giống như những đứa khác, và nó nên trở thành một tu sĩ.
Tôi Nhận Ra Xâu
Chuỗi Của Tôi
TÔI VẪN TỰ HỎI cho đến ngày hôm nay, làm thế nào đoàn tìm
kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn có thể khám phá ra ngôi làng bé nhỏ của
tôi vốn rất xa với mọi nơi, lạc lõng trong những đồng cỏ mênh mông của Amdo.
Năm 1933, tiền thân của tôi, Thubten Gyatso, đã rời thế
giới này vào tuổi năm mươi bảy. Thân thể của ngài được xông ướp theo phong tục,
và những vị tu sĩ đã giật mình khám phá vào một buổi sáng rằng đầu của ngài, vốn
được hướng về phía nam, đã quay về phía đông bắc. Chuyển động bất thường này đã
được diễn dịch như một dấu hiệu chắc chắn chỉ đến một vùng của hóa thân tiếp
theo của ngài.
Chẳng bao lâu sau đó, giấc mộng của vị quan nhiếp chính
xác nhận dấu hiệu này. Trên mặt nước thiêng liêng của Lhamo Lhatso, ông đã thấy
mẫu tự Ah, Ka, và Ma của Tây Tạng lấp lánh. Sau đó có sự hình thành hình ảnh một
tu viện ba tầng, với một mái màu ngọc lam và vàng, và rồi một ngôi nhà nhỏ xuất
hiện. Nó có những máng xối với cấu trúc kết nối bất thường. Không nghi ngờ gì đối
với vị nhiếp chính rằng mẫu tự Ah biểu thị cho tỉnh Amdo, đối với việc tiền
thân quá cố của tôi đã quay đầu ngài sau khi chết. Ka dường như được trình bày
một cách hợp lý là viết tắt của tu viện Kumbum, với ba tầng của nó và mái ngọc
lam. Họ vẫn phải xác định ngôi nhà nhỏ với những máng xối kỳ lạ.
Khi đoàn tìm kiếm thấy, trong thung lũng, những nhánh cây
bách xù xoắn lại với nhau chạy dưới mái nhà một nông dân, thì rõ ràng với mọi
người là Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đang sống ở đây. Và sau khi khảo sát, họ nghiên
cứu một đứa bé được sinh ra trong căn nhà này, những thành viên trong nhóm quyết
định hiện diện tại cửa nhà chúng tôi và hỏi thăm để tạm trú qua đêm.
Vị lạt ma, người hướng dẫn phái đoàn giả dạng như người
phục vụ và đi vào nhà bếp. Tôi chạy đến ông ta, ngồi trên vạt áo ông, và đòi
xâu chuỗi mà ông đang đeo, thừa nhận đó là của tôi. Sự thân mật này làm mẹ tôi
xấu hổ, nhưng vị lạt ma đề nghị tặng tôi xâu chuối ấy nếu tôi có thể nói tên
ông. Tôi trả lời không do dự: "Ông là Sera Aga," bằng tiếng địa
phương, có nghĩa: "Ông là lạt ma ở Sera." Tôi cũng gọi tên những vị đồng
hành của ông và đùa vui với ông trong suốt buổi tối đó, cho đến khi đi ngủ. Buổi
sáng hôm sau đoàn tìm kiếm trở lại Lhasa, không nói gì với cha mẹ tôi.
Tôi Vượt Qua Những
Kiểm Nghiệm Về Việc Nhớ Kiếp Sống Trước Của Tôi
BA TUẦN SAU, một phái đoàn đầy đủ những lạt ma và chức sắc
tôn giáo đến thăm viếng chúng tôi một lần nữa. Lần này họ mang theo vài vật dụng
cá nhân của vị tiền thân tôi, để lẫn với những thứ khác không liên quan đến
ngài. Việc này để cho thấy rằng những vị tái sanh non trẻ kia nhớ lại những vật
dụng và những người từ kiếp sống trước hay có thể đọc tụng những bài kinh trước
khi được học.
Khi họ chỉ tôi hai cây gậy, tôi chạm vào một cây một cách
do dự, nhìn nó trong một vài giây và sau đó lấy cây kia, vốn thuộc về Đức Đại Đạt
Lai Lạt Ma thứ mười ba. Sau đó tôi nhẹ nhàng vỗ vào tay của vị lạt ma đang nhìn
chăm chăm vào tôi, thừa nhận rằng cây gậy này của tôi và trách ông ta sao lấy
cây gậy ấy của tôi.
Giống như thế, tôi nhận ra, trong vài xâu chuỗi đen và
vàng, những thứ thuộc về vị tiền thân của tôi. Cuối cùng, họ ra hiệu cho tôi chọn
một trong hai cái trống: một nhỏ và giản dị, thuộc về Đức Đạt Lai Lạt Ma 13 sử
dụng để gọi thị giả; và cái kia lớn và trang trí với những viền vàng. Tôi đã chọn
cái giản dị, mà tôi dùng để rung lên bắt đầu theo phong tục của những sự thực
hành nghi lễ.
Những việc kiểm nghiệm này, mà tôi đã vượt qua thành
công, đã làm cho những thành viên của đoàn tin rằng họ đã tìm ra được hóa thân
tái sanh mà họ đang tìm kiếm. Đó cũng là một điềm lành là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13 đã ở lại tu viện bên cạnh khi ngài từ Trung Hoa trở về. Ngài đã được chào đón
ở đó bằng một nghi lễ, và cha tôi được chín tuổi vào lúc đó, đã hiện diện trong
buổi lễ đó. Vị trưởng đoàn tìm kiếm nhớ rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã quên một
đôi hia vàng ở tu viện, và điều đó được diễn dịch như một dấu hiệu rằng ngài sẽ
trở lại. Ông cũng ngắm nhìn một cách nhanh chóng ngôi nhà nơi tôi được sanh ra và
lưu ý rằng khung cảnh nơi ấy thật là xinh đẹp.
Ẩn Tâm Lộ, Sunday, January 10, 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét