Đức Đạt Lai Lạt Ma trên bảo tọa ở Potala |
Tôi Leo Lên Tòa Sư
Tử
TRONG MÙA ĐÔNG của năm 1940, người ta đem tôi đến điện
Potala, nơi tôi được chính thức đăng quang như một lãnh tụ tâm linh của Tây Tạng
Tôi không có ký ức đặc thù nào về buổi lễ này, ngoại trừ, lần đầu tiên tôi ngồi
trên tòa Sư Tử, một chiếc ngai bằng gỗ, rất rộng, được khảm trân bảo và những
hình tượng tuyệt hảo, được đặt trong Sishi Phuntsok, "Điện của tất cả những
hành vi xứng đáng trong thế giới tâm linh và trần gian," ngôi điện chính
bên cánh phải của Potala.
Không lâu sau đó, tôi được hướng dẫn đến chùa Jokhang - Đại
Chiêu Tự - ở trung tâm thành phố, và ở đấy tôi được truyền giới của một tu sĩ tập
sự; sau đó tiến hành lễ xuống tóc, việc này tôi không nhớ gì nhiều ngoại trừ một
khoảnh khắc nào đó khi tôi thấy những tu sĩ với trang phục lộng lẫy tiến hành những điệu múa nghi lễ,
tôi la lên một cách thích thú với người anh của tôi, "Nhìn kia kìa."
Tóc tôi được cắt một
cách tượng trưng bởi Reting Rinpoche, vị nhiếp chính, người cũng hành động như
quyền nguyên thủ quốc gia cho đến khi tôi đến tuổi trưởng thành, lãnh vị trí
tăng trưởng giáo thọ của tôi. Lúc khởi đầu, tôi được canh gát để ở quanh ngài,
nhưng sau đó tôi bắt đầu rất thích ngài. Ngài là một người đàn ông với một khả
năng sáng tạo lớn và một tâm hồn rất cởi mở, người luôn luôn thấy khía cạnh
sáng sủa của đời sống. Ngài thích đi dã ngoại và những con ngựa, và điều đó làm
cho ngài trở thành một người bạn lớn của cha tôi. Bất hạnh thay, trong những
năm làm nhiếp chính ngài đã trở thành một nhân vật gây tranh cải trong một
chính phủ tham nhũng mà ở đấy việc mua quan bán tước là chuyện thường nhật.
Vào lễ xuất gia của tôi, có nhiều sự đồn đãi đến hệ quả rằng
Reting Rinpoche không thể tiến hành lễ xuống tóc của tôi vì người ta nói rằng
ngài đã phá vở thệ nguyện độc thân và không còn là một tu sĩ. Tuy thế, theo
phong tục cổ truyền, tôi đã thay đổi tên là Lhamo Thondup để lấy tên của ngài
là Jamphel Yeshe. Cùng ghép với vài tên khác nữa, tên đầy đủ của tôi trở thành
Jamphel ("Trí tuệ Giác Ngộ") Ngawang ("Hoàng tử Diễn Thuyết")
Lobsang ("Thông minh Hoàn Hảo") Yeshe ("Trí tuệ Thấm Nhuần")
Tenzin ("Thủ Hộ Giáo Huấn") Gyatso (Đại Dương Trí Tuệ).
Tôi Tìm Thấy Những
Cái Răng Của Tôi
Điện Mùa Hè - Norbulingka |
KHI TÔI ĐẾN LHASA, gia đình tôi và tôi được ở trong cung
điện mùa hè của những Đức Đạt Lai Lạt Ma, Norbulingka, hay Công Viên Trân Bảo,
nơi mà các ngôi vườn tràn ngập những bông hoa. Đó là vào tháng Tám, và trong mùa ấy những cây ăn trái
đầy những quả táo, lê, và óc chó, với lòng đầy hân hoan của chúng tôi. Nhưng mẹ
tôi nhớ rằng tôi chỉ có một ý tưởng trong đầu: tìm một chiếc hộp nào đó trong
những căn phòng của tôi. Tôi tuyên bố rằng những cái răng của tôi được để ở đấy,
và tôi cho mở tất cả những tráp được niêm phong của những vị tiền thân của tôi,
hết cái này tới cái khác cho đến khi tôi thấy những gì tôi muốn tìm. Thấy một
chiếc tráp được gói bằng thổ cẩm, tôi la lên rằng nó chứa những cái răng của
tôi. Trong thực tế, chúng tôi thật tìm thấy một hàm răng vốn thuộc về Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 13.
Tôi đã quên những giai thoại này vì tâm tư tôi đang bận rộn
với những ký ức hiện tại của tôi, đang gắn bó với thân thể hiện tại của tôi. Những
sự kiện trong kiếp trước đã trở thành mờ ảo. Ngoại trừ tôi cố gắng để đem chúng
trở lại tâm tư, bằng không thì tôi không thể nhớ chúng.
Những Ký ức ấu Thơ
CHÍNH PHỦ TÂY TẠNG đã xây một ngôi nhà cho mẹ tôi, và
chúng tôi sống riêng rẻ, vì tôi sống trong những bức tường vàng của điện
Norbulingka. Nhưng tôi đến nhà của mẹ tôi hầu như mỗi ngày. Cha mẹ tôi cũng đến
thăm tôi trong nơi cư trú của những Đức Đạt Lai Lạt Ma, và chúng tôi rất gần
gũi. Mẹ tôi thăm viếng tôi rất thường, tối thiểu một lần mỗi tháng, cùng với những
anh chị em của tôi.
Tôi nhớ lại những trò chơi trẻ con của chúng tôi trong những
khu vườn của Norbulingka.
Tôi cũng nhớ một ngôi đền với một con beo và một con cọp
nhồi bông. Chúng trông rất thật đối với người em trai tôi, Tenzin Chogyal, mà
chỉ cái nhìn của chúng cũng làm chú ta sợ hãi. Bất chấp tôi bảo đảm với chú,
nói rằng chúng chỉ là những con thú nhồi bông - nhưng chú ta cũng không dám đến
gần chúng.
Trong mùa đông, ở Potala, phong tục là tôi phải dự khóa
tu một tháng. Tôi ở trong một phòng không có mặt trời, với những cửa sổ đóng
kín, và lạnh lẽo. Đó là một căn phòng cũ (hai hay ba trăm năm), và do bởi đèn dầu
cho nên nó giống một nhà bếp - tối, hôi khói, dơ.
Cũng có những con chuột! Trong khi chúng tôi tán hay tụng
kinh, tôi có thể thấy chúng đến, vì chúng thích chạy lon ton chung quanh những
bánh cúng và uống nước trong những chén bát cúng … tôi không thể nói là những vị
bổn tôn có thích loại nước ấy hay không, nhưng tôi có thể thấy rõ ràng rằng những
con chuột thích nó! (cười)
Mặc dù những năm tháng ấy, vị thầy của tôi không bao giờ
cười. Ngài luôn luôn rất, rất nghiêm khắc. Nhưng cùng thời gian này, những người
chăn nuôi, những người giản dị, đang đi ngang qua một cách vui sướng, với đàn
bò và những con thú khác của họ. Nghe họ ca hát, đôi khi tôi tự nói với mình:
"Ước gì tôi có thể là một trong những người như họ."
Tôi Vui Thích
Trong Những Điều Thú Vị Bất Hợp Pháp
TÔI NHỚ BIỂU LỘ nghiêm khắc của thầy tôi, người thường gắt
gỏng với tôi. Cho nên ngay khi bài học vừa xong, tôi liền chạy ra nhà mẹ tôi để
trốn tránh, quyết định không trở lại nơi ở chính thức của những Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Tâm ý tôi nhất định ở lại với bà, tự do khỏi bất cứ bổn phận nào của việc học
tập, nhưng rồi thì khi thời gian cho bài học buổi tối đến, tôi phải ngoan ngoản
trở lại nơi ở chính thức của tôi … (cười).
Đây là tất cả những câu chuyện của tuổi thơ …
Những ký ức của cuộc sống tuổi thơ trở lại với tôi, những
chuyện vặt vảnh buồn cười. Thí dụ, trong nhà bếp của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một
cách truyền thống, không có thịt heo hay trứng hay cá được nấu nướng bao giờ.
Nhưng cha tôi rất thích thịt heo. Thỉnh thoảng, khi tôi trở lại nơi của cha mẹ
tôi, tôi lại đòi thịt heo … (cười).
Tôi nhớ là tôi ngồi bên cạnh người cha thích thịt heo của
tôi, gần giống như một con chó con đang chờ đợi miếng ngon của nó… Trứng cũng là một thứ thú vị. Đôi khi mẹ
tôi làm món trứng đặc biệt cho tôi. Điều đó hơi bất hợp lệ! (Cười).
***
Tuổi thơ của Đức Đạt
Lai Lạt Ma giống như thời thơ ấu bình thường và có thể gần như của chính chúng
ta. Được nuông chiều bởi sự yêu thương của cha mẹ, ngài có một cuộc sống đầy
trò chơi chen lẫn với sự học tập, vi phạm quy tắc, và những thủ đoạn trẻ con để
lẫn tránh sự canh chừng cẩn thận của vị thầy nghiêm khắc.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một cuộc thi cuối cùng của bằng Geshe Lharampa |
Chúng ta hiểu năng
lực của Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự tập trung, ký ức của ngài, và bẫm tính của
ngài cho việc thực hành thiền quán một cách cần mẫn thông thường, nhưng chính
ngài thì rất khiêm tốn về những phẩm chất này. Vào tuổi mười tám, khi sự xâm lược
của Trung Cộng đang lù lù hiện ra, ngài nhận danh hiệu Geshe hay "Tiến sĩ
Phật học." Danh hiệu này đòi hỏi sự rèn luyện mãnh liệt dưới thẩm quyền
nghiêm khắc của những vị giáo thọ, và những vị thầy của ngài đòi hỏi thậm chí
hơn thông thường vì họ rèn luyện ngài cho một vận mạng đặc biệt hiếm có. Đôi
khi những vị ấy thực hiện những sự trừng phạt, "sau khi ngài đã lễ phủ phục
và thỉnh cầu sám hối, với một cây roi cán vàng, nhưng nó cũng đau không thua gì
những roi cây bình thường."
Đức Đạt Lai Lạt Ma
làm say mê trong việc liên hệ với những giai thoại, chấm phá bằng những cơn cười
bùng vở vang động, về những trò chơi khăm vô tội vạ của ngài. Ngài vui vẻ trong
việc trình bày ngài như một " bé con tinh quái", cố gắng để chúng ta
tin trong sự tinh ranh bẩm sinh của ngài.
Bức hình được
Heinrich Harrer cung cấp, "giáo sư trong các ngành khoa
học thế tục" của Đức Đạt Lai Lạt Ma là đáng ca ngợi hơn và đem lại điều gì khác hơn để soi sáng:
"Người ta nói về sự thông minh của cậu bé này như kỳ diệu. Như được nói rằng
cậu ta đọc chỉ một quyển sách để biết nó bằng trái tim; và như được biết rằng từ
lâu lắm cậu ta đã có một sự quan tâm với tất cả những gì xảy ra trong xứ sở của
cậu ấy và thường phê phán hay bình luận những quyết định của Quốc Hội."
Ẩn mình trong trung
tâm của dãy Hy Mã Lạp Sơn, cộng đồng Tây Tạng đã duy trì sự tách biệt với tiến
trình hiện đại hóa và kỷ thuật hóa và tiếp tục những nghi lễ và sự thực tập tôn
giáo vượt thời gian. Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhiệt tâm nghiên cứu về thế giới bên
ngoài, tìm thấy một người nói chuyện trong Heinrich Harrer. Nhà leo núi và mạo
hiểm người Áo đã có một đặc ân duy nhất, giữa 1949 và 1951, trong việc hướng dẫn
ngài về lịch sử, địa lý, sinh học, thiên văn học và kỷ thuật máy móc, những
lãnh vực của việc học hỏi đã mở ra một khung trời hoàn toàn mới về tri thức cho
vị thanh thiếu niên.
Harrer rời Tây Tạng
năm 1951, khi đội quân đầu tiên của quân Giải Phóng Trung Cộng xâm lược những tỉnh
miền đông của cao nguyên, Amdo và Kham. Khi Harrer qua đời vào ngày 10 tháng
Giêng năm 2006, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thương tiếc việc mất đi một người bạn
thân và một người bảo vệ cho quyền lợi của dân tộc ngài: "Ông đến từ một
thế giới mà tôi không biết, và ông đã đặc biệt dạy tôi rất nhiều về Âu châu. Tôi
cảm ơn ông vì đã giới thiệu Tây Tạng và người Tây Tạng đến phương Tây, cảm ơn
quyển sách "Bảy Năm ở Tây Tạng" của ông và những bài diễn thuyết
trong suốt cuộc đời của ông. Chúng tôi đã mất một người bạn phương Tây chân
thành, một người đã biết về Tây Tạng tự do."
Xém Chút Nữa Thì
Tôi Giống Như Moshe Dayan
MỘT TRONG NHỮNG THUẬN LỢI
trong đời sống của tôi ở Potala là có nhiều kho chứa, đó là những nơi
quyến rũ một cậu bé con nghìn lần hơn những
gian phòng chứa đầy những hiện vật tôn giáo vô giá làm bằng vàng hay bạc; chúng
thậm chi hấp dẫn hơn những kudong, hay những lăng mộ, lộng lẫy và đầy ngọc ngà
châu báu của những vị tiền nhiệm tôi. Tôi thích kho chứa vũ khí hơn, với những
sưu tập về kiếm, súng trường, và áo giáp. Nhưng như vậy thì cũng chẳng là gì so
với trân bảo không thể tưởng trong những phòng chứa đựng những đồ vật nào đó
thuộc về vị tiền nhiệm của tôi. Trong chúng, tôi thấy một cây súng bắn hơi cũ, với
một bộ đầy đủ bia bắn và đạn dược. Tôi cũng khám phá ra một ống nhòm, không đề
cập đến những đống sách vở bằng tiếng Anh minh họa về Thế Chiến thứ nhất. Tất cả
những thứ ấy hấp dẫn tôi và cung cấp cho tôi nguồn cảm hứng về mô hình những
tàu chiến, xe tăng, và máy bay mà tôi phát kiến. Sau này tôi yêu cầu dịch những
sách vở ấy ra Tạng ngữ. Tôi cũng thấy hai đôi giày Âu châu. Vì đôi chân tôi quá
nhỏ, tôi đã mang chúng khi quấn đầy vải vào bàn chân. Tôi thích thú vì tiếng động
ồn ào mà đôi gót giày cứng tạo ra.
Sự tiêu khiển thích thú của tôi là tháo mọi thứ ra từng
mãnh và sau đó cố gắng để lắp ráp lại. Tôi đã kết thúc xuất sắc hành động này,
nhưng vào lúc đầu, những nổ lực của tôi không luôn luôn thành công hoàn hảo.
Tôi khám phá một cách đáng chú ý rằng trong những thứ thuộc về Đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ 13, là một hộp âm nhạc cũ được Nga hoàng tặng. Nó không hoạt động nữa,
và tôi định sửa chửa nó. Tôi thấy rằng, giây thiều của nó bị rời ra và co lại. Khi tôi đẩy nó với
cây tục vít của tôi, cơ chế đột nhiên vượt khỏi tầm tay không thể kềm chế, và
những miếng kim loại nhỏ bay ra. Tôi không bao giờ quên âm điệu ác hiểm mà những
miếng kim loại ấy làm ra khi nó bay khắp mọi hướng trong phòng. Khi nghĩ lại sự
kiện, tôi nhận ra rằng tôi đã may mắn. Tôi có thể mất một con mắt, vì khuôn mặt
tôi ngay bên cạnh máy móc mà tôi đang vơ vẫn. Tôi đã hết mạo hiểm để tránh lỗi
lầm có thể biến tôi thành độc nhãn như tướng Do Thái,Moshe Dayan, sau này trong
cuộc đời!
Ẩn Tâm Lộ, Monday, January 11, 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét