Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

TÂM PHỨC TẠP, TÂM TỊCH TĨNH



Hai bác sĩ Tây Tạng đến nơi cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma hàng tuần để kiểm tra sức khỏe. Bác sĩ Namgyal xuất hiện đầu tiên tại thiền phòng. Ông lạy Đức Đạt Lai Lạt Ma ba lần tại ngưỡng cửa. Bác sĩ Tseten tiếp theo. Nếu họ ngạc nhiên khi thấy tôi, họ sẽ chỉ giữ âm thầm cho chính họ. Sự chú ý của họ chính yếu đến Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Bác sĩ Tseten ra hiệu cho đồng nghiệp của ông bắt đầu. Bác sĩ Namgyal, mảnh khảnh trong độ tuổi ba mươi, mặc áo dài đen với cổ cao quan lại. Một chuyên gia của y học Tây Tạng, ông quỳ trên tấm thảm dày trước Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vị lãnh tụ Tây Tạng khom về phía trước, chống cùi chỏ trái trên đùi ngài, cánh tay đưa cao. Vị y sĩ đặt cả hai tay nhẹ nhàng chung quanh cổ tay trái của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Những ngón tay của Đức Đạt Lai Lạt Ma lần mò và múa may, giống như ông đang thổi sáo; ông thăm dò những thay đổi cực vi tế trong tình trạng sinh hoạt hiện tại  của bệnh nhân ông. Đầu của hai người gần đụng nhau. Một người đang mặc y phục màu nâu đậm và đất son phong phú, và  người kia thì đồ đen đậm. Hai dường như giống hai con chim lớn săn mồi, khác biệt chủng loại và bộ lông chim vô cùng khác biệt, chen chúc với nhau để một người có thể điều chỉnh nhịp tim của người kia.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói điều gì đó với vị bác sĩ Tây Tạng, giọng nói của ông sâu, bùng nổ, không ngăn ngại. Bác sĩ Namgyal đáp lại trong giọng dịu dàng thì thầm. Sau một hai phút, ông buông cổ tay Đức Đạt Lai Lạt Ma ra. Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa tay khác ra. Lần này, vị y sĩ sử dụng những ngón tay của bàn tay kia để thẩm tra mạch.

Khi Bác sĩ Namgyal làm xong. Bác sĩ tốt nghiệp ở phương Tây Tseten tiếp cận Đức Đạt Lai Lạt Ma và đặt chiếc gối trên vạt áo ngài. Vị lãnh tụ Tây Tạng để bàn tay ngang qua chiếc gối khi bác sĩ Tseten đặt ống nghe và kiểm tra huyết áp của thân chủ ông. Đức Đạt Lai Lạt Ma tán gẫu với ông luôn: báo cáo, hỏi han. Rõ ràng ngài đang đóng vai trò thông báo năng động trong việc giám sát và bảo vệ sức khỏe của ngài.

Sau mười phút, các bác sĩ rút lui một cách im lặng như lúc họ vào.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại tọa cụ của ngài. Ngài quay sang tôi và nói: "Bây giờ, hỏi thêm nữa."

Vậy là ngài muốn tiếp tục việc phỏng vấn của ngài. Tôi có cảm giác rằng ngài đang thích thú với công việc mới của ngài. Ngài phải hỏi những câu hỏi cho một sự thay đổi. Đối với phần của tôi, tôi thưởng thức vai trò đảo ngược lại này. Đó là một kinh nghiệm mới. Nó cho tôi một cơ hội để tương tác với đồng tác giả của tôi một cách khác biệt. Và nó buộc tôi phải nghĩ về những thứ mà tôi không chú ý nhiều trước đây.

"Ông sinh ra trong một gia đình người Tàu và là một người Tàu, nhưng tôi nghĩ là lớn lên trong xã hội phương Tây nhiều hơn," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói.

"Vâng, tôi nghĩ là như thế," tôi trả lời. "Trong hai mươi năm đầu của đời tôi, tôi đã sống ở Hồng Công khi nó vẫn rất là Tàu. Mẹ tôi không nói tiếng Anh. Tâm tư, thói quen của bà rõ ràng rất Tàu. Nhưng lúc đó Hồng Công là một thuộc địa của Anh Quốc, và tôi đã đi học ở một trường của người Anh. Cho nên tôi cho rằng tôi là phân nửa và phân nửa: nền giáo dục Trung Hoa nhưng cũng ảnh hưởng bởi cung cách phương Tây."

"Umm…umm." Đức Đạt Lai Lạt Ma nghiền ngẫm việc ấy. "Bây giờ, ông đã có thêm sự tiếp xúc với người Tây Tạng … Tây Tạng thuộc về Á châu. Phật Giáo là điều gì đó thông thường với Trung Hoa và Tây Tạng. Thế nên ông tiếp nhận thêm văn hóa Á châu."

Tôi hơi bị lạc lõng. Tôi không biết chắc ngài đang hướng đến điều gì.

Tôi xen tiếp theo. "Tôi rời Hồng Công khi tôi hai mươi tuổi. Từ lúc ấy tôi đã sống hầu hết ở phương Tây. Nhưng tôi đã sống ở Nepal trong bốn năm và đã thăm viếng Tây Tạng nhiều lần. Những năm ấy ở Hy Mã Lạp Sơn đã có một tác động mạnh mẽ với tôi. Qua sự liên hệ của tôi với Tây Tạng và người Phật Giáo Tây Tạng, chắc chắn tôi biết rõ văn hóa Á châu hơn."

"Một trường hợp," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp, "Hội nghị Tâm Thức và Đời Sống. Một người Nhật, bà là một quan sát viên. Vào cuối hội nghị, bà nói với tôi: cho đến bây giờ, tôi luôn luôn có cảm giác rằng, chúng ta là người Á châu, dĩ nhiên, chúng ta có truyền thống phong phú, nhưng chúng ta không có khả năng để nghiên cứu.

"Chúng ta luôn luôn có cảm giác rằng chúng ta chỉ là những đối tượng khảo sát của người phương Tây. Tâm tư khoa học của họ luôn luôn quán chiếu chúng ta. Chúng ta không có khả năng để làm như vậy.

"Sau Hội nghị Tâm Thức và Đời Sống, bà ta có cảm giác: Những người Á châu chúng ta, cũng có khả năng để khảo sát thực tại một cách đồng đẳng hơn.

"Vậy ông có bao giờ có cảm giác như vậy không? Truyền thống của chúng ta phong phú, nhưng là điều gì đó cổ xưa. Không quá hữu dụng trong thời đại ngày nay, không theo kịp thời gian. Nhưng phương Tây quả là điều gì đó rất, rất là cao siêu?"

Hầu hết chúng ta lớn lên không thay đổi ở những nước thuộc thế giới thứ ba có sự thảo luận này ở một điểm nào đó trong đời sống chúng ta. Phương Tây quá tiến bộ, công dân của họ rất giàu và thông minh. Chúng ta đến từ phương Đông đau khổ với sự so sánh này.

"Tôi lớn lên ở Hồng Công vào những năm năm mươi và sáu mươi," tôi trả lời. "Trung Hoa được biết như Đông Á Bệnh Phu (Sick man of Asia) và Hồng Công là sa mạc văn hóa. Sống dưới sự cai trị của Anh Quốc tôi tiêm nhiễm cảm giác một nền văn hóa Trung Hoa thấp kém - tối thiểu về văn hóa Trung Hoa mà tôi biết ở Hồng Công. Chúng tôi lạc hậu về kỷ thuật, và khoảng cách đang mở rộng một cách nhanh chóng. Điều này được củng cố khi tôi là sinh viên làm nghiên cứu vật lý ở Học viện Enrico Fermi Institute ở Chicago. Tôi đã nghiên cứu về thuyết lượng tử và nguyên tử học, và tôi đã kinh ngạc.''

"Vậy thì vì kiến thức mới của ông về Tây Tạng," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục với dòng câu  hỏi của ngài, thẳng người lên phía trước từ vị trí ngồi xếp bằng của ngài, "ông thấu hiểu hơn về văn hóa Tây Tạng và Phật Giáo Tây Tạng. Những thứ này hàm ý truyền thống thông minh Á châu. Thế thì bây giờ, ông có cảm thấy một cách mạnh mẽ hơn: tôi là người Á châu? Cảm giác tự hào dân tộc gì đó không? Chúng ta là người Á châu, chúng tôi là người Tàu, chúng tôi là người Tây Tạng. Một loại tự tin hơn?"

Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa từng cho quy y Phật Giáo. Ngài đã duy trì chủ trương hàng thập niên rằng tất cả chúng ta tốt hơn nên giữ gìn truyền thống bản địa với môi trường văn hóa của chính chúng ta. Nhưng bây giờ, lần đầu tiên từ khi tôi biết ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như đang động viên để tôi có những lời khen ngợi. Ngài giống như một người cha tự hào đang khoe đứa con đầu tiên. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi không thiên vị, ngài cho phép sự ngưỡng mộ sâu xa về Phật Giáo của ngài chiếu xuyên qua. Tôi có thể thấu hiểu điều này. Xét cho cùng, đến bây giờ ngài đã tu tập sáu thập niên rồi. Ngài giống như một vận động viên Thế Vận Hội, nguyên tắc không thể tưởng và rèn luyện kinh khiếp, cuối cùng có thể có một vị hợp pháp trên bục. Và như tôi ngưỡng mộ việc đoạt huy chương Thế Vận Hội, tôi không ghen tỵ ngài trong việc biểu lộ một chút tự hào.

"Khi tôi gặp ngài vào  năm 1972," tôi nói với ngài, "tôi bắt đầu phát triển một sự tò mò nào đó về Phật Giáo. Tôi mò mẫm tài tử trong Thiền tông, Lão giáo, và Tuệ Minh Sát. Trong những năm vừa qua, cảm ơn ngài, tôi đã đi đến biết điều gì đó về Phật Giáo Tây Tạng. Đây là những gì tôi nghĩ: hệ thống tư tưởng hai nghìn năm trăm năm này thích hợp không thể tưởng cho loài người và thời đại hiện nay - một kho tàng trân bảo chân thành. Nó cống hiến một kế hoạch chi tiết hoàn toàn khả thi đến sự cát tường của cảm xúc. Và như những nhà khoa học bây giờ kết luận, là nó cũng tốt cho sức khỏe của chúng ta. Vì vậy, vâng, tôi tự hào rằng tôi đã biết điều gì đó về Phật Giáo Tây Tạng - một truyền thống tuệ giác phát sinh từ Á châu. Như Jean-Jacques Annaud, một đạo diễn phim, một lần đã nói: 'Phật Giáo ở khắp nơi.' Và Amazon.com nói với tôi bây giờ có hai mươi nghìn quyển sách về Phật Giáo."

***
Vào lúc 11:30, Paljor-La, vị thị giả, đến với một khay lớn đầy thực phẩm. Ông để trên chiếc bàn cà phê thấp phía trước Đức Đạt Lai Lạt Ma, vốn đã ngồi trên góc của chiếc ghế bành. Có đến mười chén và dĩa xếp không theo trật tự. Giống như nhiều tu sĩ Phật Giáo, bửa ăn chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong ngày là vào buổi trưa.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đang đói. Ngài đã dậy từ lúc 3:30, và bửa điểm tâm đã hơn sáu tiếng rưởi rồi. Ngài nghiêng mình về phía trước một cách không nhẫn nại và nhanh chóng dở nấp dĩa ra. Đó là một bửa ăn thịnh soạn, và mùi hương thuật tuyệt: bánh mì tròn Tây Tạng, súp, và một vài dĩa rau cải xào trong thật bắt mắt, một dĩa củ cải trắng sống, và một dĩa lớn trông như gỏi cuốn của Việt Nam. Đức Đạt Lai Lạt Ma nồng nhiệt quán sát qua các món thức ăn trước mặt ngài. Ngài lấy một miếng bánh mì Tây Tạng và cắn một miếng. Khi ngài thưởng thức hương vị của nó, ngài nhìn lên và nhận ra tôi đang đứng ở một khoảng cách tôn kính, đang nhìn ngài như bị thôi miên. Ngài hướng sự chú ý của ngài đến những dĩa trước mặt  ngài, rồi thì, sau một khoảnh khắc do dự, ngài lấy dĩa củ cải.

"Tặng phẩm của tôi. Lấy một miếng," ngài nói, khi ngài đẩy mạnh dĩa ấy đến trước mặt tôi. Tôi vâng lời lấy một miếng.

"Bây giờ, sáu tháng qua, hầu hết là rau cải," ngài nói với tôi giữa lúc đang húp súp. "Gần như không có thịt nữa ngoại trừ một ít thịt tuyết ngưu (yak) khô từ Tây Tạng. Tôi đã thử dùng rau cải trước đây, năm 1965, trong hai mươi tháng, ăn chay." Ngài đặt chén súp xuống, và lấy một cuốn gỏi cuốn. "Bây giờ, không quá gắt gao nữa. Trong những khách sạn lớn. Tôi dùng thịt."

"Nếm," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, đưa cho tôi một cuốn. Việc cuốn gỏi cuốn với đầy nhưng bên trong thật toàn hảo: thịt tuyết ngưu trắng khô, với hương vị đậm đà đặc thù của nó, trộn lẫn với bún và rau cải sắc nhuyễn. Mùi vị thật là tinh tế. Đức Đạt Lai Lạt Ma rõ ràng có một đầu bếp tuyệt vời.

"Ngon chứ?"

"Ngon tuyệt."

Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu. "Nghĩ ngơi đi và trở lại lúc năm giờ. Cảm ơn, tạm biệt."

***
Khi tôi trở lại khu cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào lúc năm giờ chiều, ngài đã ngồi trên thiền tòa sau bàn giấy của ngài. Một khăn tắm vàng nhạt đang quấn quanh thân trên của ngài, và chiếc sà rông màu rỉ sét bao quanh mông và chân ngài. Chiếc TV, đời mới Sony Wega, thường được che kín trong một hộc tủ ở một phía bệ thờ, bây giờ đang được mở lên, âm thanh thấp. Đức Đạt Lai Lạt Ma, tay phải cầm máy điều khiển, và đang xem băng tầng Khám Phá (Discovery) một cách chăm chú.  Một tàu Trung Hoa ba cột buồm hùng vĩ, đang lướt trên Biển Đông Nam Á, đang trở buồm theo chiều gió một cách khéo léo giữa những hòn đảo màu lục bảo. Sau một hay hai phút, ngài đổi đài BBC thế giới trình bày tin tức khí tượng mới nhất.

Mắt ngài vẫn bám vào TV, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, "Ông có biết nhiều người ở Hồng Công trên một trăm tuổi không? Mới đây tôi đã gặp những người tuổi trên chín mươi ở Tawang. Tôi gặp một cụ ông ở một nơi. Tôi hỏi bao nhiêu tuổi và cụ nói một trăm, nhưng trông như khoảng sáu mươi."

"Ông nội tôi hơn chín mươi tuổi," tôi trả lời tránh né. Tôi không biết thống kê của Hồng Công về tuổi tác. "Thậm chí ông được xác nhận là một người nghiện thuốc phiện." Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như hơi sửng sốt vì tin tức này, không chắc là tin hay không tin tôi.

"Và Sikkim cũng thế, tôi chú ý," ngài tiếp tục. "Tôi đã gặp vài người trên chín mươi và một người trên một trăm. Một vị ni, vài năm trước khi tôi ở đấy, đã nói với tôi rằng bà một trăm tuổi. Bà trông như bảy mươi, thế đấy."

"Sự hòa bình của tâm hồn," tôi nói, liên hệ đến niềm tin của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng tâm tư hòa bình có thể đưa đến một đời sống trường thọ và mạnh khỏe.

"Tôi nghĩ rằng cuộc sống của họ đơn giản hơn," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. "Sự hòa bình của tâm hồn, không nghi ngờ gì ở đấy. Sự hòa bình của tâm hồn trong hai cách. Một: sống thật giản dị. Do bởi thế, tâm tư ít bị quấy nhiễu. Và thứ kia: tâm tư rất phức tạp, tâm tư biết nhiều thứ. Nhưng bên trong ấy, tâm tư tĩnh lặng." Ngài chỉ ngón tay vào mũi ngài và nói, "Như tôi." Ngài nghiêng đầu ra sau và cười vang động một hồi lâu.

"Nhưng ngài đạt được tâm thức tĩnh lặng này như thế nào?' tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma.

"Phân tích," ngài nói một cách giản dị.

"Phân tích?"

"Thí dụ, hãy xem vụ bao tử đau kinh khủng ở Patna. Tôi phân tích hoàn cảnh. Nếu có một khả năng nào đó để giải trừ cơn đau, thế thì không cần phải lo lắng - bởi vì có giải phap. Bây giờ, nếu không có giải  pháp, vậy thì không cần phải lo lắng - bởi vì bạn không thể làm bất cứ điều gì. Một điều khác nữa. Thật rất hữu ích để so sánh cơn đau với nổi đau nào đó kinh khủng hơn nhiều. Ngay lập tức ông cảm thấy , 'Ô, cơn đau này thật sự không quá tệ hại so sánh với thứ ấy.' Vậy là ông cảm thấy khá hơn ngay lập tức."

Đức Đạt Lai Lạt Ma vói đến cái khay ra/vào màu đỏ để  hồ sơ nhiều tầng trên đầu chiếc tủ gỗ và lục lọi một số giấy tờ.

"Tôi nhận một lá thư từ Đài Loan," ngài nói với tôi. Ngài mở ra hai tờ giấy, tìm kiếm đoạn thư ngài thích thú. Ngài bắt đầu đọc lớn: "'Tôi là một người đàn ông tính khí tệ hại. Người ta thường khó chịu về tôi. Như một người bán trà, sự tham lam làm tôi mất lợi, và tôi chịu đựng đau khổ tinh thần dài lâu. Bây giờ, qua việc nghiên cứu Phật Giáo, tôi nhận ra sai lầm của tham dục. Tính khí tệ hại của tôi được kiểm soát dần dần. Tôi sẽ không chỉ trích người khác một cách dễ dàng.' " Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt lá thư xuống vạt áo ngài, nhìn về phía tôi, và cười rạng rở với sự hài lòng rõ ràng.

"Rồi thì tôi nghĩ một điều khác mà ông ta đã đề cập." Ngài dò trong thư và đọc lớn một lần nữa, " 'Và tôi đang buôn bán một ngày nọ. Bổng nhiên, tôi đang xem xét đến các nhu cầu của những đối thủ của tôi hơn là nhu cầu của tôi. Đây là một kinh nghiệm mới.' " Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nhìn vào thư, la lớn lên. " 'Tôi chưa bao giờ có điều này trong đời sống của tôi. Bây giờ gia đình của tôi và bạn bè tôi cảm thấy thoải mái với tôi và thương vụ của tôi được cải thiện.' " Ngài cào cào trên đầu ngài và cười thêm nữa.

Paljor-la vào lúc 5:30 chiều với một cái khay có hai chiếc bình thủy và một cái dĩa đậy khăn. Ông để cái ca trên bàn của Đức Đạt Lai Lạt Ma và chế trà nóng vào đó. Đức Đạt Lai Lạt Ma lấy chiếc bình thủy khác và đổ đầy sửa nóng vào ca. Khi Paljor-la quay mình định đi ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma dở tấm khăn đậy dĩa lên để hé nhìn xem có gì trong dĩa. Ngài nói điều gì đó với vị thị giả, vị ấy đi vòng qua góc phòng và trở lại với một chiếc hộp nhựa lớn chứa bánh ngọt xếp theo từng loại hình. Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm kiếm trong ấy một cách cẩn thận. Ngài không vội vả với việc ấy. Ngài cuối cùng chọn một chiếc bánh tròn và đưa nó cho tôi.

"Ô, bây giờ chấm dứt. Cảm ơn, tạm biệt," ngài nói. Từ tọa cụ của ngài, ngài mở rộng hai tay về phía tôi. Tôi cúi xuống, cầm đôi tay ngài, và chạm đầu tôi vào tay ngài.

"Cảm ơn ngài, thưa Đức Thánh Thiện," tôi nói.

Một câu hỏi nẩy lên lúc tôi bước ra khỏi khu cư trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Có cái gì đó trong dĩa, cực kỳ thú vị hay là ngon miệng? Đức Đạt Lai Lạt Ma giống như tất cả những tu sĩ Tây Tạng khác, đáng lẻ không ăn bất cứ gì sau buổi ăn ngọ. Tôi không thể kềm chế mà mĩm cười khi cắn miếng bánh ngọt - một tặng vật trực tiếp từ Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ẩn Tâm Lộ, Monday, January 04, 2016 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét