Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN: Môi Trường/Biểu Tượng/Tư Thế/Hít Thở

 




Nguyên bản: Environment/Symbols/Posture/Breathing
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên
tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ

Hiệu
đính: Tuệ Uyển
***


Đối với người mới bắt đầu, địa điểm khá quan trọng. Khi chúng ta đã phát triển một số trải nghiệm nhất định, thì các yếu tố bên ngoài có rất ít tác động. Nhưng nói chung, địa điểm thiền định phải yên tĩnh.

Khi chúng ta thiền định về sự tập trung của tâm trí, thì chúng ta cần một nơi hoàn toàn biệt lập, một nơi không có tiếng ồn. Điều đó rất quan trọng. Sau đó, đối với một số bài tập yoga, độ cao cũng tạo nên sự khác biệt. Độ cao càng cao thì càng tốt; núi cao là nơi tốt nhất.

Ngoài ra, có những địa điểm mà những thiền giả giàu kinh nghiệm đã từng sống trước đây, và do đó đã ban phước và truyền năng lượng cho địa điểm đó. Vì vậy, sau đó, những người ít kinh nghiệm hơn sẽ được truyền cảm hứng từ địa điểm đó, nhận được rung động hoặc phước lành từ địa điểm đó. Đầu tiên, một người phát triển cao sẽ ban phước cho địa điểm đó, và sau đó những phước lành này được truyền đến những thiền giả khác.

Khi chúng ta dọn dẹp và sắp xếp lại căn phòng, mong muốn của chúng ta không chỉ là có một nơi sạch sẽ, mà còn là để sắp xếp lại tâm trí của mình. Khi sau đó chúng ta hình dung các vị bổn tôn, cúng dường và trì tụng mật ngôn, thì giống như chúng ta đã chuẩn bị để tiếp đón những vị khách quan trọng. Khi chúng ta mong đợi một vị khách được mời, thì trước tiên chúng ta phải dọn dẹp và sắp xếp. Thật không hay khi mời một vị khách đến một nơi bừa bộn. Để thực hành thiền định, trước tiên hãy dọn dẹp phòng của bạn. Mong muốn thực hiện của bạn không nên bị ô nhiễm bởi các trạng thái tâm trí tiêu cực như chấp trước, ác cảm hoặc các thái độ tương tự.

Có một câu chuyện về một trong những thiền giả vĩ đại ở Tây Tạng. Một ngày nọ ông
sắp xếp lễ vật của mình rất cẩn thận, rồi ông ngồi xuống và nghĩ, "Tại sao mình lại làm thế?"

Ông nhận ra rằng mình đã làm như vậy vì muốn gây ấn tượng với một trong những ân nhân của mình, người sẽ đến thăm ông vào ngày hôm đó. Ông rất chán ghét động lực ô uế của mình đến nỗi ông đã lấy một nắm bụi và ném lên lễ vật.

Người thiền định này đã từng là một tên trộm. Thỉnh thoảng ông vẫn bị thôi thúc bởi ham muốn trộm cắp. Khi ông đến thăm một gia đình nào đó, tay phải của ông tự động đưa đến một vật đẹp. Ông bắt lấy nó bằng tay trái và gọi, "Đây là một tên trộm, đây là một tên trộm." Ông có thể tự rèn luyện theo cách này. Đây thật sự là một cách thực hành rất hiệu quả, bởi vì ông đã thực hiện đúng điều mình muốn ở mọi khoảnh khắc.

Tương tự như vậy, khi chúng ta dọn dẹp hoặc chuẩn bị một số thứ, động lực của chúng ta phải trong sáng và chân thành. Những mối quan tâm thế gian nên ít liên quan nhất có thể.

Sau đó, cách sắp xếp các đối tượng quy y khác nhau trên bàn thờ được giải thích (trong văn bản). Nếu bạn có đủ khả năng để có tất cả các vật phẩm tôn giáo cần thiết, thì bạn nên trưng bày chúng. Nếu bạn không đủ khả năng để có chúng, thì cũng không sao. Thiền giả vĩ đại của Tây Tạng, yogi Milarepa, không có gì ngoài một số cuộn giấy chứa những chỉ dẫn của thầy Marpa, mà ông đã đặt xung quanh hang động. Ông không có gì trong hang động của mình, nhưng một đêm nọ, một tên trộm đã đột nhập vào. Milarepa cười và nói, "Vì ta không thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây vào ban ngày, vậy thì ngươi sẽ tìm thấy gì vào ban đêm?" Người ta nói rằng một thiền giả thật sự không bao giờ cảm thấy thiếu vật chất bên ngoài.

*Biểu Tượng Của Sự Quy Y

.Tượng Phật.

Thuật ngữ tiếng Phạn "Phật" chỉ một chúng sinh có tâm trí được thanh lọc khỏi những lỗi lầm và những chứng ngộ của người đó đã phát triển hoàn toàn.

Phật còn được gọi là Như Lai (Tathagatha), là bậc đã thể nhập vào bản chất của sự giác ngộ và là bậc đã xuất hiện từ đó.

Khi giải thích ý nghĩa của một người nào đó phát sinh từ na see của chân như thì người ta sẽ đi đến chủ đề về ba thân của một Pháp thân (Dharmakaya), Báo Thân (thân Thọ dụng Toàn vẹn - Sambogakaya) và Hóa thân (Nirmanakaya).

Những giải thích chi tiết về ba thân của chư Phật có thể được đưa vào trong toàn bộ văn học Đại thừa.

Theo giáo lý này, khi Đức Phật thị hiện vào thế giới này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thể hiện Hóa thân (Nirmanakaya) từ Pháp thân (Dharmakaya). Tại đây, tất cả các sự kiện lớn trong cuộc đời của Đức Phật, bắt đầu từ khi thụ thai trong bụng mẹ cho đến khi nhập Niết bàn, đều được coi là những sự kiện quan trọng của Đức Phật.

Các Đức Phật cũng được gọi là Thiện Thệ (Khéo Vượt Qua-Sugata), những bậc đã thể nhập diệu lạc, những bậc đã đi trên con đường diệu lạc vào thể trạng diệu lạc. Thuật ngữ này bao gồm những sự chứng ngộ an lạc, sự viễn ly an lạc hoặc sự chấm dứt và Phật tính, tinh hoa của Phật Đà, theo giáo lý Phật giáo, vốn có trong tất cả chúng sinh

Nói chung, thân, lời và tâm ý của Đức Phật được giải thích có những biểu hiện khác nhau: thân là Quán Thế Âm, lời nói là Văn Thù và tâm ý là Kim Cang Thủ. Quán Thế Âm, Văn Thù và Kim Cang Thủ được giải thích là hiện thân của lòng từ bi, trí tuệ và năng lượng của Đức Phật.

Quán Thế Âm và Văn Thù xuất hiện như những vị bổn tôn hòa bình, trong khi Kim Cang Thủ xuất hiện với thân phẫn nộ.

Nói chung, khi một người có sức mạnh tâm trí mạnh mẽ, họ có thể hành động quyết liệt và mạnh mẽ hơn, và đây là lý do tại sao có những vị bổn tôn trông hung dữ. Theo Tantra Yoga Tối thượng, người ta gọi đây là "đưa ham muốn hoặc tức giận vào con đường".

Ở đây, Tara, một bổn tôn hòa bình khác, được nói đến như là khía cạnh thanh lọc của năng lượng cơ thể. Tất cả những phẩm chất khác nhau của Đức Phật, bao gồm lòng từ bi, trí tuệ và sức mạnh, phụ thuộc vào năng lượng. trên thực thể chuyển động

Người ta cũng có thể nói rằng Tara là vị thần nữ quyền. Có một truyền thuyết theo đó Tara, khi bà nuôi dưỡng khát vọng đạt được giác ngộ, đã quyết tâm trở nên giác ngộ trong hình hài nữ giới của mình.

Để thể hiện lời nói của chư Phật, chúng ta sử dụng một văn bản thiêng liêng, nếu có thể là một bản sao của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, hay Prajnaparamitasutra.

Bất Nhã Ba La Mật-Prajnaparamita có nghĩa là trí tuệ siêu việt. Có nhiều loại trí tuệ khác nhau, chẳng hạn như trí tuệ tự nhiên, con đường dẫn đến trí tuệ đó ​​và trạng thái trí tuệ kết quả. Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa giải thích những loại trí tuệ khác nhau này.

Loại văn học này cấu thành nên phần chính của kinh điển Đại thừa. Trong bản dịch tiếng Tây Tạng của kinh điển Phật giáo thiêng liêng có khoảng hai mươi tập Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, bao gồm khoảng hai mươi văn bản khác nhau. Bản văn dài nhất có một trăm ngàn câu kệ, bản tiếp theo có hai mươi lăm ngàn, tám ngàn, v.v.

Bản văn ngắn nhất gồm chữ AH. Đây được gọi là Kinh Bát Nhã Ba La Mật gồm một mẫu tự. Trong tiếng Phạn, AH là chữ cái để chỉ sự phủ định vì chân như, hay bản chất tối thượng, như chúng ta đã thảo luận, là sự vắng mặt của sự tồn tại độc lập; đây là sự phủ định.

Biểu tượng tiếp theo của sự quy y là bảo tháp. Điều này tượng trưng cho tâm của chư Phật. Có tám loại bảo tháp khác nhau, ví dụ, những loại tượng trưng cho chiến thắng ma quỷ, giác ngộ, bát Niết bàn, v.v. Khi tôi nhìn vào những loại bảo tháp khác nhau này, tôi nghĩ rằng chúng được phát triển như một phương tiện để tưởng nhớ.

Tiếp theo, lễ vật dâng lên bàn thờ là nước tinh khiết, bông hoa, hương, đèn và trái cây. Điều này được mô phỏng theo phong tục phục vụ khách ở Ấn Độ vào thời điểm đó. Nếu Đức Phật đã dạy Phật giáo ở Tây Tạng, ngài sẽ nói về những lễ vật như bơ và tsampa.

Tư Thế Thân Thể Và Hơi Thở

Tiếp theo tôi sẽ giải thích tư thế thân thể trong khi thiền tập. Chỗ ngồi thiền nên được nâng lên một chút ở phía sau vì điều đó giúp giảm cang thẳng. Ghế hiện tại mà tôi đang ngồi có độ đàn hồi; phía trước cao hơn phía sau, hoàn toàn ngược lại.

Ngồi ở tư thế kim cang (bắt chéo chân) rất khó, nhưng nếu nó không đau thì đó là cách đúng đắn. Hoặc bạn có thể ngồi ở tư thế nửa kim cang [Đức Thánh Thiện đã làm mẫu một tư thế bắt chéo chân rất thoải mái], hay trong tư thế của Tara (làm mẫu một lần nữa), rất thoải mái.

Trong thủ ấn tay phải đúng, mu bàn tay phải đặt vào lòng bàn tay trái và hai ngón tay cái dựng lên và chạm vào nhau tạo thành một hình tam giác. Hình tam giác này có ý nghĩa mật tông, tượng trưng cho Cõi chân lý (Dharmadhatu), nguồn gốc thực tại và cũng là nhiệt lượng ở rốn.

Hai cánh tay không được chạm vào cơ thể. Đầu hơi cúi xuống, đầu lưỡi chạm vào vòm miệng, giúp ngăn ngừa tình trạng khát nước và chảy nước dãi khi thiền sinh tập trung sâu, tập trung vào một điểm. Môi và răng phải giữ nguyên vị trí tự nhiên, mắt nhìn vào chóp mũi. Điều này không thành vấn đề khi người ta có chiếc mũi to, nhưng khi người ta có chiếc mũi nhỏ, việc nhìn vào chóp mũi đôi khi gây đau. [Cười] Vì vậy, điều này phụ thuộc vào kích thước của mũi.

Về vị trí của mắt, lúc đầu, bạn có thể quán tưởng rõ hơn khi nhắm mắt, nhưng về lâu dài thì điều này không tốt, bạn không nên nhắm mắt. Quán tưởng được thực hiện ở cấp độ tinh thần chứ không phải cấp độ cảm giác. Nếu bạn rèn luyện bản thân để thiền với đôi mắt mở và quen với điều đó, thì ngay cả khi một vật thể xuất hiện trước mắt, bạn sẽ không mất đi hình ảnh tinh thần mà bạn đang thiền. Mặt khác, nếu bạn rèn luyện bản thân và quen với việc thiền tập với đôi mắt nhắm, bạn sẽ mất đi hình ảnh tinh thần ngay khi bạn mở mắt ra.

Trong khi thiền, hơi thở của bạn phải tự nhiên. Bạn không nên thở mạnh hoặc quá nhẹ. Đôi khi nếu bạn đang thiền kết hợp với các thực hành tantra và thực hiện một số yoga năng lượng, như thực hành thở chín vòng, thì nó sẽ khác.

Khi bạn đang trong trạng thái tâm trí dao động, như khi bạn giận dữ hoặc mất bình tĩnh, thì tốt nhất là hãy lấy lại sự bình tĩnh bằng cách tập trung vào hơi thở. Chỉ cần đếm hơi thở, quên hoàn toàn cơn tức giận. Tập trung vào hơi thở và đếm vào/ra “một, hai, ba,” lên đến hai mươi.

Vào thời điểm khi tâm trí bạn tập trung hoàn toàn vào hơi thở, hơi thở đến và đi, các đam mê lắng xuống. Sau đó, bạn sẽ dễ dàng suy nghĩ rõ ràng hơn.

Vì tất cả các hoạt động, bao gồm cả thiền, đều phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của ý định hoặc động lực, nên điều quan trọng là trước khi bắt đầu thiền, bạn phải nuôi dưỡng động lực đúng đắn. Chúng ta đang tham gia vào một thực hành có liên quan đến tantra, vì vậy động lực phù hợp là tránh bị phân tâm bởi mối quan tâm chỉ dành cho cuộc sống này. Động lực của chúng ta cũng không nên chỉ bị ảnh hưởng bởi mối quan tâm đến sự hoàn hảo và hạnh phúc của cuộc sống luân hồi. Động lực đúng đắn là thái độ vị tha./.



 

PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO KHÔNG?

 




Nguyên tác:
Is Buddhism a Religion?
Tác giả: Anam Thubten Rinpoche
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***

Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin. Ví dụ, mèo và chó không nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của chúng và có xu hướng sống hạnh phúc miễn là chúng nhận được những gì chúng cần ngay tại thời điểm hiện tại. Điều này khiến Loài Người Thông Tuệ (Homo sapiens) trở thành loài duy nhất trên Trái đất có khả năng tham gia vào các quá trình tư duy phức tạp và tạo ra các hệ thống tôn giáo và triết học. Do đó, việc có tôn giáo là một đặc điểm riêng của con người mà không có ở bất kỳ loài vật nào khác.

Trong thế giới ngày nay, tùy thuộc vào nơi bạn ở, tôn giáo không thật sự phổ biến với nhiều người. Điều này đặc biệt đúng ở Tây Âu và Bắc Mỹ, đây là một sự thay đổi lịch sử to lớn. Ngày xửa ngày xưa, tôn giáo là xương sống của thế giới phương Tây, nơi cuộc sống của mọi người xoay quanh nó. Hầu như mọi thị trấn đều có một nhà thuyết giáo và một nhà thờ. Mọi người đưa khái niệm về Thượng Đế vào mọi vấn đề của cuộc sống như là trục đạo đức và triết học mà mọi thứ phải xoay quanh.

Điều này bắt đầu thay đổi với sự ra đời của Thời đại Khai sáng vào thế kỷ 17 và 18, điều này được phản ánh trong câu trả lời của nhà thiên văn học người Pháp Pierre-Simon Laplace (1749–1827) cho Napoleon Bonaparte (Nã Phá Luân I) khi giải thích lý thuyết của ông về cách vũ trụ thiên văn hình thành. Khi Napoleon hỏi ông ấy rằng Thượng Đế phù hợp với bức tranh như thế nào, ông ấy chỉ trả lời đơn giản, "Tôi không cần những giả thuyết như vậy."

Câu trả lời này cũng là hình ảnh thu nhỏ của tâm trí phương Tây, bắt đầu giải thích mọi điều bí ẩn của cuộc sống thông qua trí tuệ thuần túy, mà không dựa vào các học thuyết hàng thế kỷ chưa từng bị nghi ngờ. Hãy tưởng tượng nếu cả hai đều là Phật tử. Khi đó Napoleon sẽ hỏi: "Sự phát sinh phụ thuộc lẫn nhau (duyên sinh) phù hợp với bức tranh ở đâu?" Laplace sẽ nói rằng tất cả là về điều đó.

Tôn giáo ở phương Tây rõ ràng đang chết dần, không còn hy vọng hồi sinh kỳ diệu. Tôn giáo đã làm được nhiều điều tốt đẹp trong lịch sử, tạo nên những cộng đồng vững mạnh dựa trên đức tin và niềm tin; phát triển các hệ thống đạo đức mà qua đó mọi người thực hành những việc làm tốt, chẳng hạn như lòng hào phóng, sự tha thứ, v.v.; và nó cũng có những khía cạnh đen tối.

Thế giới phương Tây hiện đang ở trong một dạng lấp lửng về văn hóa, trong đó họ tìm kiếm thứ gì đó để lấp đầy khoảng trống do sự thiếu vắng đức tin để lại. Có lẽ mọi người đang cố gắng sử dụng chính trị để lấp đầy khoảng trống đó? Đây có thể là lý do tại sao rất nhiều người khá sùng đạo về chính trị, đến mức ly hôn và tan vỡ tình bạn đang xảy ra trong xã hội Mỹ do sự khác biệt về quan điểm chính trị.

Có một xu hướng mới ở nhiều nơi trên thế giới là liên kết tôn giáo với mặt tối của nó. Bạn sẽ gặp rất nhiều người trên thế giới ngày nay nói rằng, "Tôi không theo tôn giáo, nhưng tôi có tâm linh." Có một sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và tâm linh trong tâm trí của nhiều người. Ngay cả nhiều giáo thọ Phật giáo phương Tây cũng có xu hướng mô tả Phật giáo là một giáo pháp hoặc một con đường tâm linh, và cố gắng tránh liên kết nó với tôn giáo, vốn mang nhiều gánh nặng văn hóa và trí tuệ cũ.

Bây giờ câu hỏi đặt ra là Phật giáo có thật sự là một tôn giáo hay không. Không có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này. Điều đó phụ thuộc vào cách bạn nhìn nhận Phật giáo. Không giống như hầu hết các tôn giáo mà chúng ta tìm thấy trên thế giới, Phật giáo không có khái niệm về một vị Thượng Đế toàn năng là đấng sáng tạo duy nhất của vũ trụ. Phật giáo về cơ bản là về việc thay đổi ý thức của chính mình bằng cách thực hành thiền tập và tuân theo một bộ quy tắc đạo đức có giá trị phổ quát. Theo quan điểm đó, ai đó có thể nói rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo, mà là một giáo pháp hoặc con đường giác ngộ bên trong.

Một câu hỏi như vậy không phải là vấn đề đối với hầu hết Phật tử ở Châu Á. Câu trả lời không tạo ra sự khác biệt lớn trong tâm trí của những người theo đạo. Không chỉ vậy, một câu hỏi như vậy mang tính triết học đến nỗi một bộ phận lớn Phật tử tại gia Châu Á thậm chí còn không hiểu câu hỏi đó có nghĩa là gì.

Ở phương Tây, khi mọi người nói rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo, họ đang nghĩ về nó như một truyền thống phi hữu thần (không
  đấng tạo hóa) đưa ra sự hướng dẫn về mặt đạo đức và triết học về cách sống và cung cấp các kỹ thuật thiền tập để chuyển hóa tâm trí và trái tim của chúng ta. Nhiều người cũng muốn tách nó ra khỏi các tôn giáo khác, những tôn giáo thường bị các tiếng nói thế tục tấn công vì nhiều lý do. Không chỉ vậy, quan điểm này mang lại cho mọi người sự tự do để diễn giải các giáo lý Phật giáo theo cách mà họ cũng như những người khác có thể hiểu được.

Động cơ này phù hợp với bản thân Phật giáo, dạy rằng Pháp không phải là một con đường đơn lẻ, mà là một sức mạnh sống động tương ứng với nhu cầu tâm linh của mỗi cá nhân. Hơn nữa, các giáo thọ Phật giáo được khuyến khích trau dồi (implore upaya) phương tiện thiện xảo để truyền bá Phật pháp trên thế giới bằng cách gặp gỡ những người khác ở bất cứ nơi nào họ đang ở trên hành trình bên trong của chính họ. Điều này có thể thực hiện được vì cốt lõi của Phật pháp không dựa trên các lý thuyết cứng nhắc do con người tạo ra, mà dựa trên việc nhận thức và hiểu được bản chất thật sự của thực tại./.


https://www.buddhistdoor.net/features/is-buddhism-a-religion/

 

 

SỐNG CÓ Ý NGHĨA, Phần Một: Sự Tồn Tại Đích Thực

 




Nguyên tác:
Living with Meaning, Part One: Authentic Existence
Tác giả: Giáo sư David Dale Holmes
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển

***


Sự vận hành của ý thức con người có thể là chánh niệm hoặc vô thức, có ý nghĩa hoặc vô nghĩa, và tuổi trẻ không phải lúc nào cũng tin vào những gì mà trường phái cũ truyền thống mong muốn họ tuân thủ và tin tưởng. Đó là trường hợp của Siddhartha Gautama. Khi còn trẻ, sống trong thực tế thông thường, ngài không hài lòng với sự dạy dỗ và đào tạo mà truyền thống của cha của ngài đã nhồi nhét vào ngài , và sau đó gây ra cho ngài sự bối rối, căng thẳng và xung đột.

Càng cảm thấy thiếu điều gì đó trong giáo lý truyền thống, Siddhartha Gautama càng không hài lòng với lối sống xa hoa, cảm giác, tự mãn đã được cung cấp một cách tự do và hào phóng, nhưng đồng thời, cũng được áp đặt nhẹ nhàng và tinh tế lên ngài. Cách ngài trải nghiệm cuộc sống vương giả của mình không hoàn toàn phù hợp với hình ảnh của ngài về hạnh phúc và an lạc nên như thế nào.

Vào thời điểm này trong quá trình phát triển của mình, Siddhartha Gautama cảm thấy rằng có điều gì đó còn thiếu, rằng có điều gì đó đã bị che giấu khỏi mình. Theo thời gian, ngài bắt đầu mất lòng tin vào chế độ áp đặt, và ngài càng cảm thấy lo lắng về những gì còn thiếu trong cốt lõi cuộc sống của mình, ngài càng trở nên bối rối, vỡ mộng và thất vọng.

Ở phương Tây, trong suốt lịch sử văn hóa được ghi chép, những sự chênh lệch tương tự liên quan đến việc đặt câu hỏi về hiện trạng cũng đã xảy ra trong trái tim của những thanh niên tò mò và những nhà tư tưởng sáng tạo, vang vọng ngược trở lại và xuyên suốt thời Hy Lạp cổ đại và vào cái gọi là truyền thuyết phương Đông. Thật vậy, loại truy vấn này là thứ mà khoa học và văn học đã tạo ra trong nhiều thế kỷ, cho dù chúng ta nghĩ đến những người tiên phong từ Euclid (khoảng năm 300 TCN) đến Bruno (1548–1600) hay từ Odysseus của Homer đến Daedalus của Joyce, chỉ để xác định một vài ví dụ. Đức Phật trẻ tuổi phù hợp với mô hình tìm kiếm chân lý mới này, mặc dù có khuynh hướng đặc biệt độc đáo.

Sử dụng hình ảnh văn học để minh họa cho cách suy nghĩ sáng tạo như vậy có thể nảy sinh, chúng ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh một thanh niên há hốc đứng trên đỉnh của một vách đá cao chót vót, trong một khung cảnh rộng lớn, hoang dã, rộng mở, đối mặt với một vách đá dựng đứng, rơi xuống một khoảng không vô hình, vô tận.

Chàng thanh niên không còn khả năng bước trở lại không gian an toàn. Chàng thanh niên không chắc chắn và không vững vàng, đầy sợ hãi, run rẩy và sợ hãi. Cảm thấy giống như một gã hề hài hước đang đắm chìm trong trò hề bi hài, nhưng vẫn khao khát như một anh hùng đang truy tìm một sự thật kỳ lạ, chàng thanh niên đứng với một tâm trí không chắc chắn nhưng can đảm muốn nhảy—nhảy và bay, như một con nhộng trở thành bướm, vào một khoảng không rộng lớn, rộng mở, vẫy gọi nhưng đáng sợ.

Chàng thanh niên đang cảm thấy một nỗi sợ hãi khó chữa về độ cao, nỗi sợ bị ngã và gặp phải một kết cục đột ngột và không có nghi lễ. Chàng thanh niên đầy lo lắng, đau khổ và hối hận, bị thúc đẩy bởi sự thất vọng, tuyệt vọng và sợ hãi. Chàng thanh niên đầy sợ hãi trước mối đe dọa của sự không tồn tại sắp xảy ra, đầy sợ hãi trước bản sắc bị mất; đông cứng vì kinh hoàng khi nghĩ đến việc mất đi cảm giác "tồn tại" như một bản ngã hiện hữu, liên tục và trường tồn.

Chàng thanh niên cảm thấy một nỗi lo lắng lớn đến nỗi ngay cả những nền tảng được cho là truyền thống và các khái niệm cố định về tính hai mặt được nắm bắt và thực tại vững chắc cũng bắt đầu run rẩy, rung chuyển và lung lay. Vũ trụ, thay vì có vẻ là một thực thể ổn định, thân thiện, vững chắc, cố định, trở thành một quá trình chuyển động liên tục thay đổi, không thể hiểu nổi, không bao giờ kết thúc, phi cá nhân nhưng toàn diện, được tạo thành từ năng lượng nhấp nháy, thoáng qua, dao động trong một vũ trụ rộng lớn không thể hiểu nổi không có điểm bắt đầu hay kết thúc nào được biết đến.

Tuổi trẻ can đảm nhưng không chắc chắn của chúng ta cảm thấy hoàn toàn bị cô lập, cô đơn và đơn độc trong cuộc hành trình đơn độc của mình. Bị xa lánh, không có ai giúp giải quyết sự mất phương hướng này. Giống như thể những người trước đây đã bảo vệ giờ đã bỏ rơi tuổi trẻ và không còn ở đó để chăm sóc khi tuổi trẻ khiêm nhường và cố gắng vô ích với tới, vươn ra và chạm vào viền tượng trưng của chiếc váy trên không của một vũ trụ hùng vĩ vô nhân tính, thờ ơ, rộng lớn đến khó hiểu—giống như một kẻ ăn xin tầm thường, nịnh hót và cầu xin sự sáng tỏ.

Tuổi trẻ không chỉ cô đơn. Cũng không có đấng sáng tạo nào giúp đỡ họ. Ý tưởng về Thượng Đế đã chết. Thế giới cuối cùng cũng đã trưởng thành. Tuổi trẻ trước đây còn non nớt, nhưng đã đến lúc tuổi trẻ phải đối mặt với những cuộc đấu tranh này ngay bây giờ bất kỳ sự giúp đỡ nào từ bất cứ đâu. Đã đến lúc vật lộn với thực tế, mặc dù những gì nghiêm ngặt, thực tế là "có thật" vẫn liên tục, thất thường lẩn tránh, làm họ bối rối và khó hiểu.

Một khi có thể quan sát dòng chảy tinh tế của thiên nhiên một cách rõ ràng, gần gũi và cẩn thận, thì chàng thanh niên không còn có thể xem vũ trụ như có một cảm giác lý tưởng, dễ hiểu về tính nhất thể, sự thống nhất và mạch lạc. Cái nạng của việc khái niệm hóa vũ trụ như một thực thể bê tông quay tròn một cách khách quan, như một thực tại cố định và bất biến, giờ đây đã bị nghiền nát không thể phục hồi và không còn hiệu quả nữa.

Trong khi nhận thức có vẻ “khách quan” hàm ý dựa trên tính hai mặt phân tích, kinh nghiệm như một thực tại trí tuệ, thì sự trừu tượng của lý thuyết đơn thuần không bao hàm toàn bộ thực tại. Lý thuyết như vậy chỉ hoạt động như một công cụ, và một lý thuyết vật lý trạng thái rắn không thể truyền tải “cách nó vốn có” theo thuật ngữ vật lý hạ nguyên tử, với các sóng năng lượng tiến hóa, thay đổi liên tục phát sinh và chấm dứt, biến mất và xuất hiện trở lại, trong một quá trình luôn thay đổi của tự nhiên.

Ngược lại, mặc dù có nhiều điều để trải nghiệm trong “thế giới chủ quan”, nhưng việc tìm kiếm “chủ quan” cũng sớm trở nên khó hiểu. Nhân loại được trang bị các công cụ để nhìn “cách nó vốn có”, nhưng không biết cách mài giũa và sử dụng các công cụ này một cách đúng đắn. Thay vào đó, chúng ta tô màu, làm ô nhiễm, làm vấy bẩn và thay đổi nhận thức của mình về bản chất con người mang tính vũ trụ và cá nhân nói chung, bằng những cảm xúc và tình cảm, những quan niệm sai lầm và thậm chí thường là sự sùng bái ám ảnh.

Chúng ta làm hỏng những nhận thức thuần túy với sự thiên vị ích kỷ về “thích” và “không thích”, thêm thắt và làm vấy bẩn những nhận thức thông qua cảm xúc không cân xứng, và sau đó phải gánh chịu hậu quả, bằng cách phát triển những quan điểm méo mó, không cân xứng về kinh nghiệm thực nghiệm, do đó tạo ra những sai lệch tương tự như quặng bạc bị nhiễm cặn bã tinh thần, giống như chất độc liên tục làm ô nhiễm sự tinh khiết của nó.

Lúc đầu, tuổi trẻ của chúng ta đã lầm tưởng rằng những cảm xúc và cảm giác này cấu thành nên một “cái tôi” thật sự, giữ quan điểm thế gian thông thường về “cái tôi” với lòng sùng mộ cứng rắn và ảo tưởng gây nghiện thường thấy ở những người trần gian. Nhưng sự che giấu, lừa dối và ảo tưởng vô thức dẫn đến mất phương hướng và bối rối. Cảm giác đang đi sai đường đẩy người tìm kiếm bối rối xuống trạng thái bất an khinh thường, khó chịu, ghê tởm và thậm chí là tự ghét mình.

Sâu thẳm bên trong, chàng thanh niên biết rằng vì sự trong sáng của các lựa chọn đạo đức đã bị thỏa hiệp, nên thiếu vắng ý định đích thực có ý nghĩa và hành động đúng đắn—thiếu tính xác thực—nên người tuổi trẻ phát triển thành sự ghét bỏ và khinh miệt cái gọi là bản ngã vì sự giả dối về mặt đạo đức của nó.

Còn nhiều điều để nói về nguồn gốc của điều này, nhưng chúng ta đã hết chỗ rồi. Chúng ta sẽ phải đợi đến phần hai của bài viết này để có thêm thông tin./.


https://www.buddhistdoor.net/features/living-with-meaning-part-one-authentic-existence/

 

 

SỐNG CÓ Ý NGHĨA, Phần II: Sự Tồn Tại Đích Thực

 




Nguyên tác:
Living with Meaning, Part two: Authentic Existence
Tác giả: Giáo sư David Dale Holmes
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***

Một người bị tổn hại về mặt hiện sinh, không quen hành động chân thực và với ý định hoàn toàn trong sáng, có thể không nhận ra rằng lập trường của họ đối với thực tế dẫn đến sự bất an và bất ổn về mặt trí tuệ, và có xu hướng hướng đến sự phi lý. Kết quả là, tâm trí của họ trải qua những thay đổi liên tục, trở thành những căng thẳng và phức hợp về mặt tâm lý-vật lý, nghiêng về phía không lành mạnh và dẫn đến mặt tối, mờ ảo của “sự tồn tại trong thế giới”, và thậm chí coi cuộc sống là rời rạc, vô vọng và vô nghĩa.

Những đau khổ về mặt tinh thần như vậy có thể dễ dàng dẫn đến nghiện ma túy và rượu, tự ngược đãi bản thân và thể chất, và đáng buồn thay, thậm chí dẫn đến tự tử - như được mô tả trong tư thế hiện sinh của tác giả người Pháp Albert Camus, người nổi tiếng khẳng định rằng tự tử là câu hỏi triết học nghiêm túc duy nhất.

Tiểu thuyết gia người Czech, Franz Kafka đã biến nhân vật chính bị tổn thương của mình thành một sinh vật bò lổm ngổm giống như loài gián, và mặc dù đây có vẻ là một giải pháp tốt hơn, nhưng nó vẫn đầy rẫy những đau khổ về mặt tinh thần kéo dài và không ngừng nghỉ.

Những ý tưởng về “bản ngã” và “sự tồn tại” chắc chắn sẽ bị đánh bại.

Tương tự như vậy, các nhân vật chính của Jean-Paul Sartre cũng thể hiện sự tự ghét. Và vấn đề không chỉ nằm ở bản ngã cá nhân, đơn độc, mà còn thể hiện rõ trong câu châm ngôn của Sartre, “Địa ngục là những người khác”. Một người đàn ông bình thường, tầm thường tuân thủ thực tế thông thường và các quy tắc ứng xử thông thường được miêu tả như một người tầm thường không có vai trò có ý nghĩa hay cao quý nào để đóng. Điều này là do anh ta, theo cách hèn nhát, không chân thật, luôn luôn đồng ý ngoan ngoãn thực hiện các phương thức ứng xử chung chung, thông tục, thông thường, vô vị, trong khi thực hiện một sự tồn tại có vẻ tầm thường, vô nghĩa, vô mục đích.

Một ví dụ điển hình là cho rằng “một người phục vụ chỉ là một người phục vụ”, thiếu sự lựa chọn đích thực và không có khả năng thực hiện bất kỳ hành động táo bạo, cá nhân, đích thực nào. Và do đó “cả thế giới trở thành một sân khấu”, đầy những diễn viên đóng vai giả tạo, không đích thực, và cuộc sống trở thành một trò hề, điều này đúng với bất kỳ loại trò chơi nhập vai truyền thống, cố định, xã hội nào.

Đáng buồn thay, xã hội thường ra lệnh "mọi thứ phải như thế nào", vì vậy nhập vai hành vi có nghĩa là hành động theo chuẩn mực - với ít hoặc không có ngoại lệ và ít hoặc không có sự lựa chọn.

Đây cũng là vấn đề trong xã hội hiện đại. Trẻ em được nuôi dạy theo cách xã hội nghiêm khắc, thiếu sáng tạo buộc phải tuân theo chuẩn mực và cư xử như “những đứa trẻ ngoan”. Hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ được phép đưa ra lựa chọn riêng của mình, điều này gần như trở nên đáng sợ về mặt cảm xúc—chẳng trách một số trẻ thông minh lại ghét trường học.

Những ràng buộc xã hội nghiêm ngặt như vậy “để làm điều tốt” không để lại nhiều “quyền tự do lựa chọn” cho bất kỳ cá nhân nào, dựa trên ý định thực hiện hành động đạo đức đích thực, để nguyên nhân, tác động và hậu quả của những hành động đó đáng được ca ngợi về mặt đạo đức.

Cái gọi là “tốt” mà không có sự lựa chọn đích thực thì thật không may trở thành hành vi máy móc; trong khi lựa chọn điều tốt vì lòng tốt, lòng từ bi, tình yêu thương và phúc lợi của con người là loại “hành động đích thực” mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Cách mọi người đánh giá lẫn nhau có thể dựa trên các chuẩn mực xã hội hoặc cách một người cố ý chọn hành động vì điều tốt, vì lòng tốt, đồng thời tránh xa mọi cảm giác "xấu xa", cân nhắc đến tác hại mà nó có thể gây ra.

Câu châm ngôn trở thành: “Người ta có thể vui vẻ lựa chọn thực hiện hành động lành mạnh vì lợi ích mà nó mang lại, hoặc có thể thận trọng tránh xa hành động bất lành vì bất kỳ tác hại nào mà nó có thể gây ra.”

Bởi vì việc phán xét bất kỳ ai một cách bất công là không công bằng, đây là một lý do nữa tại sao một người nên lựa chọn suy nghĩ, lời nói và hành động của mình một cách chân thật , thay vì chỉ làm những gì mà xã hội mong đợi và áp đặt một cách bất đắc dĩ bởi những người có thẩm quyền bên ngoài như cha mẹ, giáo viên và các nhà lãnh đạo xã hội.

Cách một người cư xử chân thật là điều quan trọng để yêu thích và chấp nhận bản thân, dẫn đến hạnh phúc, bất kể cái gọi là "cái nhìn" phán xét của xã hội vệ sinh. Đặc biệt là khi chỉ làm những gì người khác yêu cầu và mong đợi ở một người thì ít hơn nhiều, hoặc không hề thỏa mãn về mặt tinh thần. Trẻ em có nên yêu cha mẹ mình, hay phụ nữ yêu đàn ông của mình, hay nhân viên tôn trọng sếp của họ chỉ vì họ được mong đợi như vậy? Nghe có vẻ là một câu hỏi nhạy cảm, nhưng câu trả lời hẳn là hiển nhiên.

Sống với một trái tim nhân hậu, cởi mở, cho đi và đầy tình yêu thương thì tốt hơn và đáng trân trọng hơn, thay vì cư xử “đúng mực” như một cái máy. Không được tự do lựa chọn lời nói và hành động rõ ràng sẽ trở thành vấn đề trong quá trình phát triển tinh thần. Thật vậy, một người cần có sự tự do lựa chọn vì mục đích vun đắp sức khỏe tinh thần.

Ngược lại, nếu một người cho phép mình có quyền tự do lựa chọn không bị hạn chế trong đó "cái gì cũng được", người đó có thể sẽ kết thúc giống như thuyền trưởng Wolf Larsen của Jack London, gần như không có khả năng tự kiểm soát cảm xúc và gần như không có sự tôn trọng hay lòng trắc ẩn đối với bất kỳ ai khác; anh ta trở thành một "Ubermensch", một nhà độc tài giống như kẻ tâm thần trong thế giới sinh tồn của kẻ mạnh nhất, nơi mà một người như vậy dễ dàng trở thành mối nguy hiểm cho bản thân và xã hội.

Ngược lại, nếu một người trở thành người theo chủ nghĩa hư vô, hưởng thụ hiện sinh, không tin vào bất cứ điều gì và tìm kiếm lạc thú cùng nhục dục để xóa bỏ cái gọi là sự trống rỗng và vô nghĩa của cuộc sống, người đó có thể trở thành mối nguy hiểm cho chính mình và/hoặc những người phụ thuộc vào người đó.

Nếu một người trở thành kẻ tâm thần, có quyền lực và không có khả năng tự chủ, thì không có điều xấu nào mà người đó không thể làm, và người đó có thể sẽ trở thành mối nguy hiểm không chỉ cho bản thân mà còn cho toàn xã hội.

Nếu một người trở thành kẻ theo chủ nghĩa khoái lạc hư vô sống một cuộc sống ích kỷ, buông thả, điều này dễ dẫn đến sự phụ thuộc vào tình dục, ma túy, rượu, có khả năng kết thúc bằng sự tự hủy hoại, chậm hay nhanh, theo cách này hay cách khác.

Trên thực tế, có nhiều khả năng cho cách sống của một người có thể diễn ra như có nhiều người. Điều cần thiết cho sự cân bằng tinh thần, khi lướt trên những con sóng lớn, nguy hiểm trên đại dương mênh mông của cuộc sống, là kỹ năng có thể nhìn thấy và lựa chọn con đường trung dung giữa quá nhiều và quá ít; điều cần thiết là sự sáng suốt để đưa ra những lựa chọn đạo đức dành cho điều tốt đẹp và phúc lợi không chỉ của bản thân, mà còn của những người thân cận và của tất cả chúng sinh.

Thật khó để phấn đấu sống như một vị Bồ tát, một Bậc Cao quý, nhưng không có cách nào tốt hơn để đi - điều này chắc chắn là an ủi khi biết. Sống và cho đi với một trái tim rộng mở, tràn đầy tình yêu thương thì bổ ích hơn là chỉ hành động một cách vô tư và máy móc theo các chuẩn mực áp đặt bên ngoài, giống như một số người máy vô nhân đạo, vô cảm./.

https://www.buddhistdoor.net/features/living-with-meaning-part-two-inauthentic-existence/

 

TÂM NÀY LÀ PHẬT — LÀ Người Theo Đạo (ở Nhật Bản)

 




Nguyên tác: This Mind is the Buddha”*1 — Being Religious (in Japan)
Tác giả: Gereon Kopf
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***

Trong bốn năm qua, tôi đã viết 17 bài luận về Phật giáo tại Nhật Bản cho trang Buddhistdoor Global. Trong những bài luận này, tôi đã khám phá rất nhiều hoạt động và tín ngưỡng ở Nhật Bản, ở nhiều mức độ khác nhau, có liên quan đến các truyền thống Phật giáo. Những bài luận này có thể gợi lên một hình ảnh, mà tôi nghĩ là khá chính xác, rằng tôn giáo vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản, mặc dù dưới vỏ bọc của một xã hội ở thế kỷ 21. Thật thú vị, nhận thức này trái ngược với sự hiểu biết mà nhiều người Nhật Bản có về bản thân họ. Các học giả về tôn giáo cũng như bất kỳ ai quen thuộc với Nhật Bản đều biết rằng nhiều người Nhật sẽ phủ nhận rằng họ theo đạo. Nhóm người Nhật khá lớn này không chỉ bao gồm những người theo hệ tư tưởng phản tôn giáo mà còn bao gồm những người tham dự các nghi lễ tôn giáo ít nhiều thường xuyên, tin vào cuộc sống sau khi chết cũng như các linh thức và sở hữu "bàn thờ Phật" (tiếng Nhật: butsudan) để tưởng nhớ người đã khuất hoặc "kệ thần" (tiếng Nhật: kamidana) để tôn kính các vị thần của Thần Đạo (Shintō) trong nhà của họ. Tôi tin rằng lý do cho sự căng thẳng (mâu thuẫn?) này nằm ở định nghĩa về tôn giáo và tôi muốn giới thiệu một khái niệm về tôn giáo dựa trên những ý tưởng của các nhà tư tưởng Phật giáo Nhật Bản phát triển.

Như đã biết, thuật ngữ “tôn giáo” (religion) được dịch sang tiếng Nhật là “shūkyō” (tôn giáo) và được Amane Nishi (1829–97) giới thiệu vào Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19. Thuật ngữ này được dùng để chỉ các hệ thống tín ngưỡng và thực hành du nhập từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Do đó, “Shūkyō” chỉ các hệ thống tín ngưỡng tập trung vào việc thờ cúng (thường xuyên) một vị thần (nhất thần giáo*2), được chứng kiến ​​trong một kinh thánh, đòi hỏi một bộ chuẩn mực đạo đức nhất định. Ngoài ra, thuật ngữ “tôn giáo” dường như ngụ ý một thế giới quan nhị nguyên, phân biệt giữa “tôn giáo” và “phi tôn giáo”, “thế tục”, hay như các học giả tôn giáo sẽ nói, những gì nằm ngoài thế giới không gian-thời gian của trải nghiệm của chúng ta (siêu việt) và những gì nằm bên trong thế giới đó (nội tại). Cái sau là thế giới “này” của sự trở thành, thay đổi và đau khổ, cái trước là thế giới bên kia, được đặc trưng bởi tính vĩnh cửu và sự đình chỉ chung của các định luật vật lý. Tất nhiên, cả hai định nghĩa về “tôn giáo” đều phiến diện và lỗi thời, nhưng chúng giải thích tại sao nhiều người Nhật Bản coi mình “không theo tôn giáo”, ngay cả khi họ tham gia vào các hoạt động “tôn giáo” đáng chú ý, chẳng hạn như việc tôn kính các vị thần thánh và các nghi lễ ngụ ý niềm tin ít nhiều mạnh mẽ vào thế giới bên kia.

Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang tôn giáo ở Nhật Bản, chúng ta có thể nhận ra những hiện tượng phù hợp với định nghĩa này và một số hiện tượng thì không. Thuộc về loại trước là các ngôi chùa Phật giáo, đền thờ Thần đạo và các quán trà truyền thống có kiến ​​trúc ngụ ý sự phân đôi thực tại của chúng ta thành hai thế giới; thế giới thường ngày và thế giới thần thánh. Để di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác, đặc biệt là từ thế giới thường ngày sang thế giới thần thánh, người ta phải đi qua một cánh cổng, thanh lọc bản thân tại một "bồn nước" được chỉ định cụ thể (temizuya) và, trong trường hợp của các nghi lễ trà đạo truyền thống, phải thay quần áo. Ngôn ngữ chính thức bên trong "không gian linh thiêng" được đánh dấu, 3*ngôn ngữ nghi lễ, được chính thức hóa và xóa bỏ những khác biệt xã hội được truyền đạt bởi người Nhật Bản hàng ngày. Tương tự như vậy, biểu tượng hai thế giới như vậy có thể được tìm thấy và được gợi lên bởi các cuộc hành hương mời người thực hành rời bỏ thói quen hàng ngày của họ, đến một địa điểm được đánh dấu đặc biệt, mặc áo choàng của người hành hương và tham gia vào các nghi lễ và nghi thức được quy định. Các chuyên gia tôn giáo như tu sĩ và pháp sư là những người đi lại và giao tiếp giữa hai thế giới này.

Chủ nghĩa nhị nguyên của thế giới quan tôn giáo này có thể được minh họa bằng một số bộ phim do Studio Ghibli thực hiện. Trong khi nhà làm phim Hayao Miyazaki thường phủ nhận rằng phim của ông đề cập đến các ý tưởng tôn giáo, thì Công chúa Mononoke (Mononoke hime) của ông và Pom Poko (Heisei tanuki gassenponpoko) của Isao Takahata minh họa khá tốt thế giới quan tôn giáo này. Trong cả hai bộ phim, thế giới loài người đối đầu với thiên nhiên, nơi có các linh thức và thần linh cư ngụ. Con người xâm phạm thiên nhiên bằng công nghệ và sự bành trướng đô thị của họ và do đó đe dọa không chỉ các loài động vật và linh thức sống trong rừng và núi mà còn cả cốt lõi tâm linh của chính họ. Cuối cùng, con người và thiên nhiên cố gắng duy trì sự cân bằng, ngay cả khi đó là sự cân bằng không dễ dàng, và tránh sự thống trị của một thế giới này đối với thế giới kia.

Sự xói mòn của tính hai mặt cứng nhắc giữa cõi tâm linh và cõi người được chỉ ra trong những bộ phim này thậm chí còn rõ ràng hơn trong các hiện tượng tôn giáo khác ở Nhật Bản. Thực hành tự ướp xác (tức thân Phật- sokushinbutsu)4*cực đoan và hiện đã bị cấm tại một số ngôi chùa Mật Tông (Shingon) ở tây bắc Nhật Bản và quan niệm chung rằng “Phật quả” có thể đạt được thông qua thực hành “tự tu dưỡng” (tu hành-shugyō) “trong cơ thể này” (tức thân thành Phật- sokushinjōbutsu)5*được xây dựng dựa trên niềm tin rằng cơ thể con người có thể được chuyển hóa thành cơ thể của Đức Phật. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là không có sự phân biệt thật sự giữa nhân loại và Phật quả, thế giới này và thế giới bên kia. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên đối với độc giả quen thuộc với Phật giáo Đại thừa, những người theo chủ nghĩa này tuyên bố rằng luân hồi và niết bàn không khác nhau, và đối với học giả tôn giáo, phương tiện này là nội tại và siêu việt.

Sự sụp đổ của tôn giáo và thế tục này có thể gây sốc cho các học giả nghiên cứu tôn giáo được đào tạo ở châu Âu hoặc châu Mỹ, nhưng lại lan rộng trong các hiện tượng tôn giáo Nhật Bản.

Niềm tin cốt lõi của Đại thừa này không chỉ đóng vai trò là cơ sở lý luận cho các hoạt động thực hành cốt lõi hơn của các trường phái Phật giáo ở Nhật Bản được thảo luận ở trên, mà còn cho các hình thức Phật giáo tham gia xã hội khác nhau. 6***** Nó cũng cung cấp lời giải thích về mặt lý thuyết cho các hoạt động nhằm mục đích "lợi ích thế gian này" (hiện thế lợi ích-genze riyaku), chẳng hạn như mua bùa hộ mệnh hoặc thực hiện các cuộc hành hương và nghi lễ để đạt được công đức, sức khỏe, công việc, tốt nghiệp cho bản thân hoặc một thành viên trong gia đình. Ví dụ cực đoan nhất về các hoạt động thực hành này để có được genze riyaku là một máy bán hàng tự động ở đền thờ Thần đạo mà tôi tìm thấy ở Nagasaki. Tôi tin rằng, ở các mức độ khác nhau, tất cả các hoạt động thực hành này đều thể hiện sự sụp đổ của sự phân chia giữa tính nội tại và tính siêu việt và do đó thể hiện và minh họa, theo cách này hay cách khác, rằng "tâm này chính là Phật".
***

1* Takakusu, Junjirō and Kaigyoku Watanabe, eds. 1961. Taishō Taizōkyō (The Taishō Edition of the Buddhist Canon). Tokyo: TaishōShinshū Daizōkyō Kankōkai.
2* nhất thần giáo: Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, Hồi Giáo
3*For the classical description of “sacred Space” see Mircea Eliade’s The Sacred and the Profane.
4* How to Face Death – Pilgrimages and Death Rituals in Japanese Buddhism (Buddhistdoor Global)
5* Becoming a Buddha – A Shingon Buddhist 10-step Program (Buddhistdoor Global)
6* Meaning in the Face of Transience: Reflections of Socially Engaged Buddhists in Japan (Buddhistdoor Global)

https://www.buddhistdoor.net/features/this-mind-is-the-buddha-being-religious-in-japan/

 

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

PHẬT TÍNH (Bản Chất Phật)

 





Nguyên tác: Buddha-nature
Tác giả: Anam Thubten Rinpoche
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***

Nhân loại đã và đang trên hành trình tìm kiếm kiến thức về thế giới vật chất xung quanh chúng ta và thế giới nội tâm của chính chúng ta. Một hành trình như vậy không chỉ để biết chúng ta là ai, mà còn là sự thể hiện của dạng trí thông minh độc đáo khiến chúng ta trở thành Loài Người Thông Tuệ (Homo sapiens), những người có vai trò đặc biệt. Điều này không có nghĩa là chúng ta vượt trội hay thông minh hơn trong một hệ thống phân cấp loài nào đó. Mỗi sinh vật đều có vai trò riêng. Và món quà trí tuệ này không đi kèm với giải thưởng. Trên thực tế, nó có thể khiến chúng ta lầm tưởng rằng chúng ta là chủ nhân của vũ trụ và có thể tạo ra chứng cuồng ngông tự đại lấy con người làm trung tâm.

Thông qua nghiên cứu khoa học hiện đại và nhiều thế kỷ phản chiếu triết học, giờ đây chúng ta biết rất nhiều về bản thân mình, chẳng hạn như các khối xây dựng cơ thể, chức năng thần kinh và các khía cạnh khác của bản thể. Sự hiểu biết của chúng ta về bản thân có thể không đầy đủ khi nói đến các sắc thái của bản thể, nhưng chúng ta có thể luôn biết một điều gì đó về bản thân mình ở cấp độ tâm linh và hiện sinh. Nghịch lý có vẻ này thường được cảm nhận trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ví dụ, bạn có thể không biết có bao nhiêu sợi tóc trên hộp sọ của mình, nhưng ta có thể cảm thấy rằng mình biết một điều gì đó sâu sắc về bản thân, chẳng hạn như thần tính bên trong.

Bên cạnh màu tóc, tính cách và lịch sử cá nhân, còn có bản chất cơ bản của con người chúng ta. Nhân loại đã phát triển đủ loại lý thuyết về điều này từ quan điểm triết học và tôn giáo. Một số lý thuyết này được ghi nhận trong các giáo lý tôn giáo mà những người theo chúng không thể đặt câu hỏi. Người Ấn Độ cổ đại nghĩ rằng có một bản chất của mỗi người chúng ta là vĩnh cửu và duy nhất, mà họ gọi là bản ngã (atman). Điều này đã bị Đức Phật và các nhà tư tưởng Phật giáo bác bỏ trong suốt nhiều thời đại.

Khái niệm của chúng ta về bản chất cơ bản của chính mình là câu trả lời cho chính câu hỏi: “Tôi là ai?” Câu hỏi này đã dẫn đến nhiều câu trả lời khác nhau. Hầu hết trong số chúng đều đưa ra giả thuyết rằng tất cả chúng ta đều là những thực thể riêng biệt xoay quanh điểm tập trung của sự tồn tại của chúng ta, đó là bản ngã cá nhân. Tất cả chúng ta đều đi lại mỗi ngày và tin rằng mỗi người chúng ta là một bản ngã riêng biệt. Tuy nhiên, nếu chúng ta liên tục tìm hiểu về bản thân mình, mà không hài lòng với những câu trả lời dễ dàng hoặc được chấp nhận rộng rãi, chúng ta sẽ biết rằng bản ngã cá nhân không gì hơn là một cấu trúc tinh thần.

Cảm giác có vẻ thật này về một bản ngã cá nhân và tách biệt không tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác ngoài phạm vi ý thức. Ý thức của chúng ta có thể tự ảo tưởng mình là một bản ngã tách biệt. Chúng ta có thể nói rằng cảm giác về bản ngã này là một trải nghiệm chủ quan chứ không phải là thực tế.

Vài thập niên
trước, việc tuyên bố rằng bản ngã là một ảo tưởng sẽ vấp phải sự phản đối dữ dội và bị nhiều người ở phương Tây coi là chủ nghĩa thần bí nguyên thủy. Tình hình này đã thay đổi đáng kể trong thế giới ngày nay, nhờ khoa học hiện đại, vốn đang ngày càng thân thiện với giáo lý Phật giáo hơn bao giờ hết. Một số công trình khoa học ủng hộ quan điểm cho rằng bản ngã là một ảo tưởng không có cơ sở thật sự cho sự tồn tại của nó.

Điều này có nghĩa là chúng ta không tồn tại hay là một phần của hư vô? Câu trả lời là
KHÔNG lớn. Ý tưởng về vô ngã có thể dễ dàng bị hiểu lầm là một hình thức của chủ nghĩa hư vô phủ nhận mọi thứ liên quan đến bản thân chúng ta, bao gồm cả bản chất thật sự của chúng ta. Đây là nơi mà học thuyết về bản chất Phật (Phật tính) có thể giúp chúng ta không rơi vào vực thẳm đen tối về bản thể học không có ánh sáng hoặc bất kỳ hình thức cảm hứng nào về cuộc sống của chúng ta.

Thiếu bản chất của một bản ngã cá nhân không có nghĩa là chúng ta không là gì cả hoặc không tồn tại. Chúng ta ở đây, trên thế giới này, với những cảm xúc phong phú của mình, với dòng máu ấm chảy trong huyết quản. Trái tim chúng ta dao động giữa niềm vui và nỗi buồn trước những thăng trầm không thể kiểm soát của cuộc sống. Bản chất thật sự của chúng ta không nên được định nghĩa trong ma trận của phiên bản vị kỷ của bản ngã, mà trong một chiều không gian lớn hơn nhiều và ít mang tính cá nhân hơn vị kỷ.

Khái niệm về bản chất Phật hay tathagatagarbha (
Phật tính) là một trong những con đường tốt nhất để đạt được sự hiểu biết về bản chất của chúng ta ở cấp độ sâu hơn. Mặc dù nó không thiết lập bản ngã cá nhân, nhưng nó cứu chúng ta khỏi quan điểm hư vô về bản thân. Đó là ý tưởng rằng bản chất thật sự của mọi chúng sinh là tinh khiết và vô điều kiện. Nó có thể được coi là thiêng liêng nhất, hoặc là Đức Phật chưa sinh.

Phật tính được nói đến trong kinh Đại thừa, và trở thành nền tảng lý thuyết cho Phật giáo Bắc tông, được thực hành rộng rãi ở các nước Đông Á. Nhiều người coi bậc thầy Ấn Độ Vô Trước (Charya Asanga - thế kỷ thứ tư sau Công nguyên) là người ủng hộ quan trọng nhất cho lý thuyết này. Phật tử Tây Tạng thường nghiên cứu tác phẩm của ngài như một giáo lý có thẩm quyền về chủ đề này. Theo thời gian, các trường phái tư tưởng đã xuất hiện liên quan đến cách giải thích của ngài, mặc dù sự khác biệt giữa chúng có thể được coi là hoàn toàn về mặt ngữ nghĩa. Những bất đồng về cách giải thích của ngài đã trở thành nguồn gốc của trò chơi trí tuệ, với những cuộc tranh luận không hồi kết về cách giải thích Phật tính.

Trong thời đại tự ghét bỏ và phi nhân tính hóa lẫn nhau này, khái niệm về bản chất Phật rất cần thiết như một phương thuốc thần thánh có thể chữa lành vết thương trong tâm lý chúng ta do các thế lực vô minh mạnh mẽ gây ra—không biết rằng Đức Phật chưa sinh nằm trong mỗi con người ở tận cốt lõi của bản thể họ.
***


https://www.buddhistdoor.net/features/buddha-nature/

 

 


CHƯƠNG MƯỜI TÁM: Chuyển Hóa Tâm Qua Thiền Tập

 




Nguyên bản: Transforming the Mind Through Meditation
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên
tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ

Hiệu
đính: Tuệ Uyển
***


Thiền tập là sự làm quen của tâm với đối tượng thiền định. Về cách tâm làm quen với đối tượng, có nhiều loại thiền tập. Trong một loại, tâm được tạo ra thành thực thể của một loại ý thức cụ thể, như trong thiền từ bi hoặc thiền trí tuệ. Trong loại thiền tập này, bạn đang tìm cách tạo ra tâm trí của chính mình thành ý thức từ bi hoặc ý thức trí tuệ, từ bi và trí tuệ không phải là đối tượng mà bạn đang thiền định, mà là thực thể mà bạn đang tìm cách chuyển hóa ý thức của mình thông qua quá trình làm quen.

Tuy nhiên, khi bạn thiền tập về vô thường hoặc vô ngã, vô thường và vô ngã được coi là đối tượng của phương thức nhận thức của tâm, và bạn đang thiền định về chúng. Trong một loại thiền tập khác, nếu bạn thiền tập về những phẩm chất tốt đẹp của một vị Phật nguyện ước đạt được chúng, những phẩm chất này là đối tượng của mong muốn; điều này được gọi là thiền theo cách mong muốn. Sau đó, một loại thiền khác là loại thiền mà bạn khiến các cấp độ của con đường xuất hiện trong tâm trí theo nghĩa ghi nhớ rằng có những cấp độ nhận thức này và cấp độ nhận thức khác; đây được gọi là thiền phản chiếu.

Theo một cách khác, thiền được chia thành hai loại: phân tích và ổn định. Nhìn chung, an trụ tĩnh lặng (chỉ-shamatha, zhi gnas) là thiền ổn định hay thiền chỉ, trong khi tuệ giác đặc biệt (quán-vipashyana, lhag mthong) là thiền phân tích hay thiền quán.

Đối với các đối tượng thiền, các đối tượng của cả thiền định ổn định và thiền phân tích có thể là trạng thái tồn tại cuối cùng của hiện tượng hoặc bất kỳ trạng thái nào trong số các trạng thái hiện tượng. Nhìn chung, tính không là thứ được tìm thấy ở phần kết của quá trình phân tích bằng cách lý luận và điều tra trạng thái tồn tại cuối cùng của các đối tượng; tuy nhiên, tại thời điểm thiền ổn định quan sát tính không, thiền giả tập trung một điểm vào ý nghĩa của tính không đã được xác định và không phân tích. Do đó, có cả thiền định ổn định và thiền phân tích quan sát tính không. Tương tự như vậy, cả thiền ổn định và thiền phân tích quan sát bất kỳ trạng thái hiện tượng nào đều có thể xảy ra tùy thuộc vào cách tâm tác động lên đối tượng.

Tĩnh trú, chủ yếu là thiền ổn định, là trạng thái chung của cả người theo đạo Phật và người không theo đạo Phật. Trong Phật giáo, trạng thái này chung cho cả Tiểu thừa và Đại thừa, và trong Đại thừa, trạng thái này chung cho cả Kinh thừa và Mật thừa. Tôi sẽ giải thích ngắn gọn về cách đạt được trạng thái tĩnh trú.

Tâm trí của chúng ta, như hiện tại, hoàn toàn bị phân tán vào các đối tượng bên ngoài, do đó nó trở nên bất lực. Suy nghĩ của chúng ta giống như nước chảy theo mọi hướng. Nhưng cũng giống như nước, khi được dẫn hướng, trở nên mạnh mẽ, thì tâm trí của chúng ta cũng vậy.

Tâm trí được dẫn hướng như thế nào? Trong Mật Thừa nói chung và trong Vô Thượng Du Già (Highest Yoga Mantra) nói riêng, nhiều kỹ thuật được mô tả, nhưng trước tiên tôi sẽ mô tả kỹ thuật chung cho tất cả các thừa. Để đặt tâm trí một cách vững chắc vào một đối tượng quan sát, trước tiên cần phải xác định một đối tượng quan sát. Đức Phật đã mô tả bốn loại đối tượng để thanh lọc hành vi, đối tượng khéo léo, đối tượng để thanh lọc phiền não và đối tượng lan tỏa. Ví dụ, đối với các đối tượng để thanh lọc hành vi, bất kể chúng ta chủ yếu tham gia vào cảm xúc phiền não nào trước đó, thì sức mạnh của nó vẫn ở trong tâm trí chúng ta bây giờ, và do đó, cần phải chọn một đối tượng để thiền tập sẽ chống lại sức mạnh của cảm xúc phiền não cụ thể đó. Đối với một người chủ yếu tham gia vào ham muốn, đối tượng thiền tập là sự xấu xí. Trong số bốn cơ sở chánh niệm, điều này được giải thích trong kết nối với sự thiết lập chánh niệm trên cơ thể. Ở đây, “sự xấu xí” có thể ám chỉ đến những hình dạng méo mó; chính bản chất cơ thể bao gồm máu, thịt, xương, v.v. có thể thấy bề ngoài rất đẹp với màu sắc đẹp, rắn chắc nhưng vẫn mềm mại dễ xúc chạm, nhưng khi nghiên cứu, bạn thấy rằng bản chất của nó là những thứ như xương. Nếu tôi đeo kính X-ray, tôi sẽ thấy một căn phòng đầy xương cũng như một bộ xương đang nói từ bục này. Do đó, tôi đang nghiên cứu về "sự xấu xí" có nghĩa là thẩm tra bản chất của cơ thể vật lý của chúng ta

Đối với một người chủ yếu tham gia vào lòng căm thù, mục đích của thiền tập là tình thương yêu. Đối với một người chủ yếu chìm đắm trong sự sợ hãi, thiền tập là về mười hai liên kết của sự phụ thuộc duyên sinh của vòng luân hồi. Đối với một người có cảm xúc phiền não chủ yếu là lòng kiêu hãnh, thiền tập nên tập trung vào các bộ phận của cấu thành bởi vì khi thiền tập về nhiều bộ phận, bạn sẽ đến được điểm mà bạn nhận ra rằng có nhiều điều bạn không biết, do đó lòng kiêu hãnh giảm bớt. Đối với những người bị chi phối bởi khái niệm, thiền tập được quy định là quan sát việc thở ra và hít vào của hơi thở. Đó là những đối tượng để thanh lọc hành vi.

Như đã đề cập trước đó, đối tượng quan sát cũng có thể là sự trống rỗng. Ngoài ra, bạn thậm chí có thể lấy một bông hoa, v.v. làm đối tượng. Vẫn có một thứ khác là lấy tâm trí của chính bạn làm đối tượng quan sát. Phật tử cũng có thể thiền về thân Phật; một Cơ đốc nhân có thể thiền về Chúa Jesus trên cây thánh giá.

Bất kể đối tượng là gì, đây không phải là trường hợp thiền bên trong nhìn vào một đối tượng bên ngoài bằng mắt mà là khiến hình ảnh của nó xuất hiện trong ý thức tinh thần. Hình ảnh này được gọi là "tham chiếu", và đó là đối tượng quan sát.

Sau khi xác định được đối tượng, bạn đặt tâm trí vào đối tượng đó như thế nào? Đầu tiên, bạn phải nghe về đối tượng cần thiền từ một giáo thọ, sau đó, bạn đạt được sự xác định về nó bằng cách suy nghĩ đi suy nghĩ lại về nó. Ví dụ, nếu bạn muốn thiền về thân của một vị Phật, trước tiên bạn cần phải biết về thân đó thông qua việc nghe mô tả hoặc nhìn vào một bức tượng và sau đó làm quen với nó để nó có thể xuất hiện rõ ràng trong tâm trí.

Tại điểm đó, hãy tưởng tượng nó cách bạn khoảng bốn bộ (feet), ngang tầm lông mày. Nên thiền định nó trong sáng, với một sự sáng sủa tự nhiên; điều này giúp ngăn ngừa sự khởi phát của sự giải đãi lõng lẽo.

Ngoài ra, hãy coi thân Phật tưởng tượng là nặng; điều này giúp ngăn ngừa sự phấn khích trạo cữ. Bạn có thể giảm kích thước của vật thể càng nhiều thì nó càng giúp thu hồi tâm trí, hướng dẫn tâm trí. Tư thế vật lý của bạn cũng rất quan trọng.

Đối với đối tượng quan sát, bạn cũng có thể sử dụng các chữ cái hoặc giọt ánh sáng ở những vị trí quan trọng trên cơ thể. Khi thiền định này, đối tượng phải nhỏ; đối tượng càng nhỏ thì càng tốt. Khi đối tượng ban đầu đã được xác định, bạn không được thay đổi kích thước của nó. lớn hơn hay nhỏ hơn; bạn phải coi nó đã được cố định trong suốt thời gian tạo ra sự tĩnh trú.

Đầu tiên, hãy khiến đối tượng xuất hiện trong tâm trí. Sau đó, giữ nó bằng chánh niệm để bạn không mất nó. Không mất đối tượng thông qua chánh niệm đóng vai trò là nguyên nhân phát triển nội quán.

Trong khi duy trì đối tượng, tâm trí của bạn phải có hai phẩm chất - (1) sự sáng suốt tuyệt vời không chỉ đối tượng mà còn cả ý thức và (2) trụ nhất tâm trên đối tượng quan sát. Hai yếu tố đối lập ngăn cản những điều này phát triển - sự lỏng lẻo và sự phấn khích. Sự lỏng lẻo giải đại ngăn cản sự phát triển của sự sáng suốt, và sự phấn khích trạo ngăn cản sự ổn định của việc duy trì với đối tượng.

Sự lỏng lẻo là trường hợp tâm trí trở nên quá thư giãn, quá lỏng lẻo, thiếu cường độ, sự căng thẳng của tâm trí đã trở nên yếu. Một nguyên nhân của sự lỏng lẻo là sự thờ ơ, giống như đội mũ trên đầu, một sự nặng nề. Để giải quyết, bạn phải làm cho tâm trí căng thẳng hơn.

Khi chế độ nhận thức của tâm trí được thắt chặt, thì nguy cơ lỏng lẻo ít hơn nhưng nguy cơ tạo ra sự phấn khích nhiều hơn. Sự phân tán của tâm trí do ham muốn được gọi là sự phấn khích; do đó, sự phân tán có thể là đối với bất kỳ loại đối tượng nào trong khi sự phấn khích chỉ là sự phân tán đối với các đối tượng của ham muốn. Để giải tỏa sự phấn khích và bất kỳ loại phân tán nào khác, bạn cần hạ thấp mức độ của phương thức nhận thức của tâm trí, làm cho nó bớt căng thẳng hơn.

Trong khi giữ đối tượng quan sát với chánh niệm, hãy thỉnh thoảng điều tra bằng nội quan để xem tâm trí có bị ảnh hưởng bởi sự lỏng lẻo hay phấn khích không. Nếu qua nội quan, bạn thấy rằng có nguy cơ Long lẻo, bạn cần nâng cao chế độ nhận thức; nếu có nguy cơ phấn khích, hãy hạ thấp chế độ nhận thức một chút. Qua kinh nghiệm, cảm giác về mức độ căng thẳng vừa phải của tâm trí sẽ phát triển.

Để nâng cao mức độ nhận thức của tâm trí, hãy suy ngẫm về điều gì đó khiến bạn vui vẻ; để hạ thấp nó, hãy suy ngẫm về điều gì đó làm cho tâm trí tỉnh táo, chẳng hạn như đau khổ. Khi mới luyện tập theo cách này, tốt nhất là nên thực hiện các buổi thiền thường xuyên, ngắn và vì ban đầu rất khó để tạo ra trạng thái thiền sâu khi ở trong một thành phố bận rộn, ồn ào, bạn cần hoàn toàn cô lập và tĩnh lặng. Nếu không có yên tĩnh, gần như không thể đạt được trạng thái tĩnh lặng hoàn toàn.

Khi bạn thực hành theo cách này, tâm trí dần dần phát triển ngày càng ổn định hơn, đạt đến đỉnh cao là sự an trụ tĩnh lặng. Thông qua sức mạnh của thiền tập ổn định trong đó tâm trí được tập trung một điểm (nhất niệm) vào đối tượng quan sát của mình, sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra. Dựa vào đó, sự mềm dẻo của thân thể vật lý được tạo ra, dẫn đến hạnh phúc của sự mềm dẻo của tinh thần. Dựa vào đó, hạnh phúc của sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra. Tại thời điểm mà hạnh phúc của sự mềm dẻo của tinh thần trở nên ổn định, sự an trụ tĩnh lặng được đạt được. Trong bốn sự tập trung và bốn sự hấp thụ vô tướng, trạng thái này kết hợp với hạnh phúc của thân thể và tinh thần - là sự chuẩn bị thấp nhất cho sự tập trung đầu tiên.

Tuệ quán đặc biệt nội quan đạt được theo cách tương tự khi hạnh phúc của sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra, không phải bởi sức mạnh của thiền ổn định, mà bởi sức mạnh của sự phân tích với trí tuệ thẩm tra. Có những hình thức thế tục và siêu thế của sự hiểu biết đặc biệt (tuệ giác nội quán). Thế tục là trường hợp xem một cấp độ thấp hơn là thô và một cấp độ cao hơn là bình yên, trong khi tuệ giác siêu thế đặc biệt, nếu được hiểu theo cách tổng quát, có khía cạnh của Tứ Diệu Đế. Theo quan điểm cụ thể của các hệ thống giáo lý Đại thừa, tuệ giác siêu thế đặc biệt có khía cạnh của sự vô ngã của các hiện tượng.

Để thúc đẩy sự ổn định thiền tập nhanh hơn nữa, các hệ thống mật ngôn có các kỹ thuật đặc biệt xoay quanh yoga bổn tôn. Con đường của yoga bổn tôn mang lại sự tiến bộ nhanh hơn đến Phật quả thông qua các kỹ thuật đặc biệt để phát triển sự tập trung và trí tuệ hợp nhất, đây là hai điều cuối cùng trong sáu sự hoàn hảo (lục ba la mật)- bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập trung và trí tuệ - được mô tả trong các bộ kinh điển của Bồ tát. Nếu bạn không có sự tập trung trong đó tâm trí ổn định và sáng suốt không dao động, thì khả năng trí tuệ không thể nhận ra đối tượng của nó, giống như nó vốn có, trong tất cả các vi tế của nó. Do vậy, cần phải có sự tập trung. Lý do để vun trồng trí tuệ nhận ra sự trống rỗng (tính không) của sự tồn tại cố hữu là ngay cả khi bạn chỉ có sự tập trung đơn thuần, thì nó không thể làm tổn hại đến quan niệm sai lầm rằng các đối tượng tồn tại trong và của chính chúng. Cần phải có sự hợp nhất của sự tập trung và trí tuệ (định tuệ song hành).

Theo Mật Điển Vajrapanjara Tantra, một mật điển giải thích của chu kỳ Guhvasamaja (Bi Mật Tập Hội), thì có bốn bộ Mật Thừa: Tantra Hành động, Tantra Thực hiện, Tantra Yoga và Tantra Yoga Tối thượng. Trong số này, ba tantra thấp hơn - Hành động, Thực hiện và Yoga - mô tả một phương thức tiến triển trên con đường tâm linh theo các yoga có và không có dấu hiệu, đây là các yoga của tính phi nhị nguyên của sự sâu sắc và biểu hiện. Sự ổn định thiền tập đạt được khi lấy đối tượng quan sát của thiền tập là sự xuất hiện rõ ràng của chính cơ thể bạn như là cơ thể của một vị bổn tôn. Trong khi quan sát cơ thể bạn được làm sáng tỏ hoặc hình dung như là cơ thể của một vị bổn tôn, bạn xác định được sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của nó, do đó tạo ra sự kết hợp giữa biểu hiện dưới hình dạng siêu phàm và trí tuệ thậm thâm nhận ra bản chất tối hậu của thân thể đó. Sự nhận thức sâu sắc như vậy và hiện tướng siêu phàm đồng thời là yoga của tính phi nhị nguyên của sự thậm thâm và sự biểu hiện.

Trong Tantra Hành động trong yoga có dấu hiệu, phương thức tạo ra hoặc tưởng tượng bản thân bạn là một vị bổn tôn là thông qua sáu bước được gọi là sáu vị bổn tôn. Đầu tiên là vị bổn tôn tối thượng, thiền tập về tính không của sự tồn tại cố hữu của bản thân bạn và của vị bổn tôn. Thứ hai là vị bổn tôn âm thanh, xem sự xuất hiện của hình dạng tự nhiên của sự trống rỗng như những âm thanh vang vọng của mật ngôn của vị bổn tôn cụ thể trong không gian.

Thứ ba là vị bổn tôn mẫu tự trong đó âm thanh của mẫu tự xuất hiện dưới dạng các mẫu tự đứng xung quanh mép của một đĩa mặt trăng phẳng. Thứ tư là vị bổn tôn hình tướng, sự biến đổi của mặt trăng và các mẫu tự thành thân của vị bổn tôn.

Thứ năm là vị bổn tôn thủ ấn, sự gia hộ cho những nơi quan trọng của thân thể thần thánh bằng các cử chỉ của tay gọi là "ấn". Sau đó, bạn đặt một chữ om màu trắng ở đỉnh đầu, một chữ ah màu đỏ ở cổ họng và một chữ hum màu xanh ở tim, tượng trưng cho thân, lời nói và tâm ý cao quý, và tập trung vào thân thể thiêng liêng này, hiện có tất cả các phẩm chất hoặc dấu hiệu của một vị bổn tôn. Đây là bước cuối cùng, vị bổn tôn dấu hiệu.

Khi đạt được một số thành công trong việc hình dung bản thân như một vị bổn tôn, các sự tập trung của việc trú trong lửa và trú trong âm thanh được sử dụng để tăng cường sự phát triển nhanh chóng của sự ổn định thiền tập. Sau đó, bạn tu tập yoga không có dấu hiệu, sự tập trung ban tặng sự giải thoát vào cuối âm thanh. Đây là sự tu tập tuệ giác đặc biệt siêu thế quan sát tính không của sự tồn tại cố hữu. Mặc dù yoga bổn tôn vẫn được thực hiện, nhưng trọng tâm chính là yếu tố xác định bản chất cuối cùng của hiện tượng.

Giải thích về quy trình của con đường trong Tantra Thực Hiện gần giống như trong Tantra Hoạt Động, nhưng trong Tantra Yoga thì hơi khác một chút. Ở đó, các nền tảng của sự thanh lọc được giải thích là thân, khẩu, ý và các hoạt động, và như phương tiện thanh lọc, bốn ấn được mô tả để chuyển đổi chúng thành thân, khẩu, ý và hoạt động cao quý của giai đoạn hiệu quả của Phật quả. Trong quá trình này, việc đạt được trạng thái an trụ tĩnh lặng được tăng cường bằng cách thiền tập về một biểu tượng bàn tay nhỏ, chẳng hạn như một chày kim cang, tại điểm mũi, dần dần tăng số lượng sao cho đầu tiên là cơ thể của chính bạn và sau đó là môi trường xung quanh được bao trùm bởi biểu tượng bàn tay nhỏ. Biểu tượng bàn tay cụ thể được xác định theo năm dòng dõi Phật, các vị bổn tôn trong đó mang một biểu tượng đặc biệt trong tay của họ; Ví dụ, Tỳ Lô Giá Na mang một bánh xe, A Súc Bệ mang một chày kim cang. Thiền tập về một biểu tượng bàn tay nhỏ như vậy giúp phát triển sự tĩnh lặng do kích thước của vật thể và giúp tăng cường sự khéo léo trong thiền tập thông qua việc thực hành phân tán và tập hợp nhiều hình thức của biểu tượng.

Các Tantra Yoga Tối Thượng chủ yếu giải thích một yoga của sự trống rỗng và hạnh phúc không thể phân biệt được theo hai giai đoạn của yoga: giai đoạn phát sinh là tưởng tượng và được tạo ra và giai đoạn hoàn thành là tưởng tượng và không được tạo ra. Trong cả giai đoạn phát sinh và giai đoạn hoàn thành trong Tantra Yoga Tối Thượng, các trạng thái bình thường của cái chết, trạng thái trung ấm và sự tái sinh được đưa vào con đường để chuyển hóa thành Ba Thân của Thân Phật-Chân lý (pháp thân), Thân Thưởng thức Hoàn toàn (báo thân) và Thân Phát xạ (hóa thân).

Trong Tantra Yoga Tối Thượng có các kỹ thuật thiền định về các kênh mạch bên trong, gió (năng lượng) và các giọt chất lỏng thiết yếu. Các kênh mạch trình bày được đưa ra theo hai cách: Một là mô tả vật lý trong khi cách kia chỉ dành cho thiền tập. Mô tả sau là vì lợi ích của các hiệu ứng thiền tập cụ thể, và do đó, sự tương ứng vật lý chính xác không phải là mục tiêu. Tuy nhiên, các hiệu ứng mong muốn chắc chắn được tạo ra.

Người thực hành thiền tập về các giọt, ánh sáng hoặc mẫu tự trong các trung tâm kênh mạch này. Do những nơi đặc biệt mà chúng được thiền tập và do sức mạnh của sự khởi đầu cũng như của các thiền tập sơ bộ được gọi là "gần đến trạng thái của một vị bổn tôn" v.v., chỉ cần thiền tập ổn định được sử dụng để nuôi dưỡng sự hiểu biết đặc biệt nhận ra tính không của sự tồn tại cố hữu. Ngoài ra, có thể đạt được sự an trụ tĩnh lặng (định) và sự hiểu biết đặc biệt (tuệ) cùng một lúc.

Kỹ thuật tập trung vào các chữ cái hoặc ánh sáng ở những nơi quan trọng trong cơ thể đóng vai trò là phương tiện để ngăn chặn khái niệm một cách mạnh mẽ. Lý do để ngăn chặn khái niệm là trong ý thức có nhiều cấp độ từ thô đến tinh tế nhất, và trong Tantra Yoga Tối Thượng, các cấp độ ý thức tinh tế hơn được chuyển hóa thành các ý thức con đường của trí tuệ. Thông thường, khi chúng ta chết, các cấp độ ý thức thô hơn sẽ ngừng lại, và các cấp độ tinh tế hơn sẽ trở nên rõ ràng, đạt đến đỉnh điểm là sự biểu hiện của ý thức tinh tế nhất, tâm trí của ánh sáng trong suốt của cái chết. Một người bình thường không có nhận thức trong giai đoạn này, như thể đang ngất xỉu. Tuy nhiên, nếu trong khi cơ thể - nền tảng của Tâm trí - không thoái hóa, một hành giả yoga rút lui các cấp độ thô hơn của ý thức thông qua sức mạnh của thiền tập, các ý thức tinh tế hơn có thể được trải nghiệm trong sự nhận thức và sáng suốt hoàn toàn. Rút lui mạnh mẽ các cấp độ thô hơn và tinh tế hơn của gió (năng lượng) và tâm trí, hành giả đạt được cấp độ tinh tế nhất, tâm của ánh sáng trong suốt (linh quang). Được sử dụng trong quá trình con đường, cấp độ ý thức này đặc biệt mạnh mẽ và nhanh chóng Để làm chín muồi tâm trí để các cấp độ này của con đường có thể được thực hành, trước tiên cần phải thực hành giai đoạn phát sinh.

Đó chỉ là một bài trình bày ngắn gọn; hiểu được các trạng thái này và cách chúng đạt được trong kinh thừa và mật thừa rất hữu ích./.