Nguyên bản: "Eight Verses for Training the Mind"
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ
Hiệu đính: Tuệ Uyển
***
Đến đây, tôi muốn dùng một bản văn đơn giản làm nền tảng cho bài giảng của chúng ta. Bản văn này được gọi là Tám Bài Kệ Luyện Tâm, đề cập đến các nguyên tắc phát triển Bồ Tát Tâm. Nó được viết cách đây nhiều thế kỷ.
Tôi đã nhận được khẩu truyền và giáo lý về Tám Bài Kệ Luyện Tâm từ Kyabje Trijang Rinpoche, vị thầy quá cố của tôi. Tôi đã trì tụng những bài kệ này mỗi ngày trong hơn ba mươi năm và suy ngẫm về ý nghĩa của chúng. Tác giả của bản văn này, bậc thầy Kadampa Geshe Langri Thangpa, đã xem việc thực hành giác ngộ tâm, và đặc biệt là thiền quán trao đổi với người khác, là điều quan trọng nhất trong suốt cuộc đời của ngài.
Tôi sẽ giải thích ngắn gọn tám bài kệ này.
Với quyết tâm đạt được trọn vẹn
Lợi ích cao nhất cho tất cả chúng sinh,
Những người vượt trội hơn cả viên ngọc như ý,
Nguyện tôi luôn trân quý họ.
Lòng tốt của chúng sinh đối với chúng ta không chỉ giới hạn ở việc đạt được mục tiêu cuối cùng, giác ngộ. Việc hoàn thành mục tiêu tạm thời của chúng ta, chẳng hạn như trải nghiệm hạnh phúc, cũng phụ thuộc vào lòng tốt của họ. Do đó, chúng sinh còn cao quý hơn cả viên ngọc như ý. Vì vậy, chúng ta cầu nguyện: "Nguyện con luôn trân quý họ." Chúng ta nên xem họ quý giá hơn cả viên ngọc như ý.
Mỗi khi giao tiếp với người khác,
nguyện con nghĩ mình là người thấp kém nhất,
Và từ sâu thẳm trái tim,
con xem người khác là tối cao.
Khi gặp gỡ người khác, chúng ta không nên nghĩ mình cao quý, khinh thường hay thương hại họ, mà hãy nghĩ mình khiêm nhường hơn họ. Chúng ta nên trân quý và tôn kính họ bởi vì họ có năng lực ngang bằng với hoạt động của chư Phật để ban cho chúng ta sự an lạc và giác ngộ.
Trong mọi hành động, nguyện con tìm kiếm tâm mình,
Và ngay khi những vọng tưởng khởi lên,
Gây nguy hiểm cho bản thân và người khác,
Nguyện con kiên quyết đối mặt và ngăn chặn chúng.
Khi thực hành nghi lễ, đôi khi chúng ta gặp phải những chướng ngại. Những chướng ngại này không phải từ bên ngoài mà là từ bên trong; chúng là những vọng tưởng trong tâm trí chúng ta. Kẻ thù thật sự, kẻ hủy diệt hạnh phúc của chúng ta, chính là bên trong chúng ta.
Khi chúng ta có thể rèn luyện và kiểm soát tâm trí thông qua sự tu tập và nỗ lực, chúng ta sẽ đạt được sự bình an và tĩnh lặng thật sự.
Vì vậy, Đức Phật đã nói: "Bạn là chủ nhân của chính mình." Mọi thứ đều nằm trên vai bạn, tùy thuộc vào chính bạn.
Mặc dù trong quá trình thực hành tâm giác ngộ, chúng ta phải kiềm chế mọi tiêu cực, nhưng trước hết chúng ta phải tránh xa sân hận. Sân hận tạo ra hạnh phúc, trong khi chấp thủ không bao giờ có thể trải nghiệm hạnh phúc trong một số trường hợp.
Chúng tôi có một câu nói ở Tây Tạng: "Nếu bạn mất bình tĩnh và nổi nóng, hãy cắn đốt ngón tay bạn.” Có nghĩa là khi bạn mất bình tĩnh, đừng thể hiện nó với người khác; thay vào đó, hãy tự nhủ: "Hãy bỏ nó đi."
Khi tôi thấy những chúng sinh có bản chất xấu xa,
Bị đè nặng bởi những hành vi sai trái và phiền não dữ dội,
Tôi xin trân trọng họ
Như thể tôi đã tìm thấy một kho báu quý giá và hiếm có
Một số người, khi họ thấy những người khác kiệt sức vì khổ đau và bị áp bức bởi ảo tưởng, có xu hướng tránh những trải nghiệm này vì họ sợ bị tác động và bị cuốn đi. Thay vì tránh những tình huống như vậy, các vị Bồ tát đối mặt với họ một cách dũng cảm, mang lại hạnh phúc cho chúng sinh khác, như một cơ hội.
Khi những người khác vì đố kỵ đối xử tệ bạc với tôi
Bằng sự vu khống, lăng mạ và những điều tương tự,
Tôi xin chịu đựng sự mất mát và
dâng chiến thắng cho họ.
Khi những chúng sinh khác, đặc biệt là những người có ác cảm với bạn, lăng mạ và làm hại bạn vì đố kỵ, bạn không nên bỏ rơi họ, mà hãy tôn trọng họ như đối tượng của lòng từ bi lớn nhất của bạn và chăm sóc họ. Do đó, người thực hành nên tự mình gánh chịu "tổn thất" và trao tặng "chiến thắng" cho người khác.
Người thực hành tâm giác ngộ tự mình gánh chịu tổn thất và trao tặng chiến thắng cho người khác, không phải với động lực để bản thân trở nên đức hạnh mà là với động lực giúp đỡ chúng sinh khác.
Tuy nhiên, đôi khi việc gánh chịu tổn thất và trao tặng chiến thắng cho người khác có thể gây hại cho họ về lâu dài, nên có những trường hợp bạn không nên làm như vậy.
Nếu một người thực hành lòng vị tha thấy mình rơi vào tình huống như vậy, được thúc đẩy bởi động lực mạnh mẽ muốn giúp đỡ người khác, người ấy thật sự nên làm điều ngược lại.
Hãy nghĩ theo cách này: Khi điều gì đó không vui xảy ra và bạn nổi cáu, bạn là người thua cuộc, bởi vì sự nổi cáu ngay lập tức phá hủy sự bình yên trong tâm trí bạn và về lâu dài mang lại những kết quả không mong muốn. Tuy nhiên, nếu ai đó làm tổn thương bạn và bạn không mất đi sự bình yên trong tâm trí, đó là một chiến thắng.
Nếu bạn trở nên thiếu kiên nhẫn và mất bình tĩnh, bạn sẽ đánh mất phần tốt nhất của bộ não con người, khả năng phán đoán tình huống. Một khi bạn tức giận, gần như phát điên vì tức giận, thì bạn không thể đưa ra quyết định đúng đắn. Khi tâm trí bạn bình tĩnh, bạn có thể phân tích một cách rõ ràng hơn. Không mất đi sự tĩnh lặng, hãy phân tích hoàn cảnh và nếu cần, hãy phản ứng lại. Đây là ý nghĩa tâm linh của mất mát và chiến thắng.
Khi người mà tôi đã giúp đỡ
và mang lại lợi ích với niềm hy vọng lớn lao
lại làm tổn thương tôi một cách tồi tệ,
tôi cầu mong người đó là bậc thầy tối cao của tôi.
Khi một trong những người mà bạn đã giúp đỡ đền đáp lòng tốt của bạn một cách sai trái, bạn có thể cảm thấy rằng mình không muốn giúp đỡ người đó nữa. Chính vì lý do khó mà không oán trách người ấy - và đây là một trở ngại lớn đối với người thực hành lòng vị tha - nên cần nhấn mạnh rằng người thực hành phải đặc biệt quan tâm đến những người như vậy.
Người làm hại bạn không chỉ nên được xem là người cần được bạn đặc biệt quan tâm, mà còn là người dẫn dắt tâm linh của bạn. Bạn sẽ thấy rằng kẻ thù của bạn chính là bậc thầy tối cao của bạn.
Tóm lại, tôi xin trực tiếp và gián tiếp mang lại
Lợi ích và hạnh phúc cho tất cả những người mẹ của tôi.
Tôi xin âm thầm gánh chịu những hành động gây hại
và đau khổ của những người mẹ của tôi.
Vì người khác thì vô số, và vì bản thân bạn chỉ là một. Nếu bạn có một chút khả năng phán đoán, bạn sẽ thấy rằng thật đáng giá khi một người, dù bạn có vượt trội đến đâu, hy sinh bản thân vì người khác cũng trở nên có giá trị hơn, rằng một người không được phép hy sinh vô số người khác vì lợi ích của chính mình.
Sự hình dung đặc biệt rất có giá trị ở đây. Hãy xem mình là một người rất ích kỷ đang gánh chịu đau khổ của họ. Hãy hình dung họ đang tích cực trải nghiệm nỗi đau khổ của họ. Trước mặt bạn là vô số chúng sinh đang sống trong khi bạn ích kỷ giữ thái độ trung lập và không thiên vị. Sau đó, hãy xem bạn muốn đứng về phía nào, của họ hay của chính bạn.
Nếu các chính trị gia ích kỷ nghĩ như vậy, thì họ sẽ không ngần ngại tham gia vào phe đa số.
Ban đầu, rất khó để giảm bớt và kiểm soát thái độ ích kỷ của bạn. Nhưng nếu bạn kiên trì trong một thời gian dài, bạn sẽ thành công. Người nào từ sâu thẳm tâm mình thực hành gánh chịu mọi đau khổ và lỗi lầm của chúng sinh khác, cũng nên rèn luyện việc chia sẻ với họ mọi phẩm chất tốt đẹp, như đức hạnh và hạnh phúc, mà mình có.
Bảy thi kệ trên đề cập đến việc thực hành tâm giác ngộ quy ước, tức là phương tiện. Thi kệ thứ tám đề cập đến việc thực hành tâm giác ngộ tối hậu, tức là trí tuệ.
Bằng cách thực hành tâm giác ngộ quy ước, ta tích lũy được một kho tàng công đức; và bằng cách thực hành tâm giác ngộ tối hậu, người ta tích lũy được một kho tàng trí tuệ.
Với hai sức mạnh này kết hợp, ta đạt được kết quả là hai thân Phật: sắc thân, hay Rupakaya, và chân thân, hay Dharmakaya.
Nguyện tất cả điều này không bị ô nhiễm
bởi những vết nhơ của việc quán chiếu tám nguyên lý thế gian.
Nguyện tôi, bằng cách nhận thức mọi hiện tượng là huyễn ảo,
Không dính mắc, được giải thoát khỏi sự trói buộc của luân hồi.
Nếu ai đó thực hành một pháp môn như vậy, được thúc đẩy bởi những mối bận tâm thế tục, chẳng hạn như mong muốn một cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, nơi họ có được hạnh phúc và đạt được sự hoàn hảo, thì về cơ bản điều này là sai lầm. Thực hành pháp môn này, hy vọng rằng mọi người sẽ gọi mình là một hành giả tôn giáo vĩ đại, cũng chắc chắn là sai lầm. Việc xem đối tượng của lòng từ bi là thật sự tồn tại cũng vậy.
Bạn nên thực hành pháp môn này với sự hiểu biết rằng mọi hiện tượng đều giống như ảo ảnh.
Người ta hiểu rằng mọi hiện tượng đều giống như ảo ảnh thông qua việc phủ nhận sự tồn tại thật sự giả định của chúng, bỏ lại phía sau những gì chỉ là phủ nhận sự gán ghép, gán nhãn, định danh được cho là của chúng. Đây là quan điểm của Phật giáo.
Trước đó, chúng ta đã nói về quan điểm và đạo đức trong Phật giáo. Quan điểm này được gọi là duyên khởi. Mặc dù có nhiều cấp độ ý nghĩa khác nhau đối với duyên khởi, nhưng ý nghĩa cuối cùng của nó gần với sự hiểu biết về tánh Không.
Duyên khởi thiết lập bằng chứng cho thấy một điều gì đó không thật sự tồn tại. Bằng cách đạt được sự hiểu biết đầy đủ về duyên khởi, người ta có niềm tin mạnh mẽ vào sự vận hành của các quy ước. Do đó, người ta dấn thân trong thực hành tâm giác ngộ và tích lũy công đức; và bằng cách tập trung vào tánh Không, hay sự tồn tại không thật, người ta tích lũy kho tàng trí tuệ.
Được hỗ trợ bởi động lực mạnh mẽ này của tâm giác ngộ, người ta thực hành lục độ ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Sáu ba la mật cũng có thể được xem xét dưới ba tiêu đề như ba sự rèn luyện cao hơn.
Sự rèn luyện đầu tiên trong ba sự rèn luyện cao hơn là thực hành trì giới. Có ba cách để thực hiện điều này. Cách được giải thích trong ba la đề mộc xoa (Pratimoksha) hay luật tạng (Vinaya) được gọi là giải thoát cá nhân. Cách thứ hai là kỷ luật của Bồ tát, và cách thứ ba là kỷ luật của Mật tông.
Giới luật giải thoát cá nhân có hai loại: của tu sĩ và của cư sĩ.
Người tại gia có thể thọ hai loại giới, hoặc là một ngày hoặc trọn đời.
Tất cả các giới đều dựa trên việc tránh 10 hành động: sát sinh, trộm cắp và tà dâm (ba giới này là tránh mười điều bất thiện về thân); nói dối, nói lời gièm pha, nói lời cay nghiệt và nói lời phù phiếm (bốn điều này là những hành động bất thiện về lời nói); và tham lam, ý định gây hại và tà kiến (ba hành động bất thiện về ý). Những tà kiến được đề cập chủ yếu là những quan điểm hư vô, nhưng cũng có những tà kiến khác, chẳng hạn như chấp nhận một đấng sáng tạo toàn năng.
Cách chính để thực hành giới luật của Bồ tát là không yêu quý bản thân mình hơn người khác. Có rất nhiều giới luật Bồ tát khác nhau.
Trong giới luật Mật tông có bốn loại Mật tông, và đối với hai Mật tông cao nhất, một số giới luật nhất định phải được thọ trì và tuân giữ. Giới luật chính là tránh xa những hình tướng tầm thường và bám víu vào sự tầm thường.
Trong việc thực hành ba giới luật này, giới luật thấp hơn nên được lấy làm nền tảng cho giới luật cao hơn tiếp theo. Sau khi đã đặt nền tảng cho giới luật, người ta phải thực hành hai pháp tu cao hơn còn lại: thiền định và trí tuệ.
Mặc dù các kỹ thuật thực hành thiền định và trí tuệ được giải thích trong kinh điển Đại thừa, nhưng các kỹ thuật được giải thích trong Mật tông được Phật tử Tây Tạng coi là cao siêu hơn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét