Nguyên tác: Buddhistdoor View: The Place of Expertise and Experience in
Buddhism Today
Tác giả: Buddhistdoor Global
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***
Trong một cuốn sách mới và một bài viết được phát hành rộng rãi trên trang web
tin tức Salon tuần này, tác giả người Mỹ Curtis White đã chỉ trích gay gắt một
xu hướng trong Phật giáo phương Tây mà ông gọi là "sùng bái chuyên
môn". Cụ thể, ông lập luận rằng Phật giáo đã hòa nhập với khoa học phương
Tây để tạo ra một tầng lớp tăng lữ và tín đồ sùng đạo riêng. Tệ hơn nữa, trong
tầm nhìn của White, cả hai đã hòa nhập với sự trỗi dậy của những doanh nhân lôi
cuốn và doanh nghiệp định hướng thị trường, trong cái mà học giả người Đan Mạch
Jørn Borup gọi là "Phật giáo thịnh vượng" - rao bán Phật giáo như một
con đường dẫn đến hạnh phúc cho những người đủ khả năng chi trả cho mức giá vé
vào cửa thường rất cao. (Salon)
Đặc biệt, White nhắm đến cuốn sách mới nhất của nhà tâm lý học Rick Hanson,
Giáo Pháp về Thần Kinh: Khoa Học Mới, Trí Tuệ Xưa, và Bảy Thực Hành của Hạnh
Phúc Tối Thượng (Neurodharma: New Science, Ancient Wisdom, and Seven Practices
of the Highest Happiness - Harmony 2020), một cuốn sách kết hợp giữa khoa học và
Phật pháp ngay trong tựa đề, kèm theo những lời khuyên hữu ích từ những bậc
thầy Phật pháp nổi tiếng. White lưu ý: “Những người trong danh sách này đều có
bằng cấp. Hầu hết đều là bác sĩ các chuyên ngành, chủ yếu là Tiến sĩ và một số
ít là Bác sĩ Y khoa, rất nhiều là nhà tâm lý học và nhà thần kinh học.” (Salon)
White kết thúc bài viết của mình bằng một ghi chú có vẻ hoài nghi, cáo buộc
rằng những bác sĩ và tiến sĩ này không đại diện cho Phật giáo, mà là "Con
đường của chuyên gia", mà White cho rằng "không nghiêm túc"
nhưng "hài lòng với vị trí của mình trong và giữa những cư dân của 'giai
cấp được bảo vệ'”, hiện đang được bảo vệ khỏi hậu quả của thảm họa khí hậu và
cuộc đại tuyệt chủng thứ sáu.[1]" (Salon)
Những cáo buộc như vậy rất nghiêm trọng và chỉ ra một trong những cách Phật
giáo đang phát triển và lớn mạnh trong thế giới hiện đại và hậu hiện đại. David
McMahon đã ghi chép lại cái mà ông gọi là “diễn ngôn của Phật giáo khoa học”
trong cuốn sách Sự hình thành của chủ nghĩa hiện đại Phật giáo (The Making of
Buddhist Modernism - Nhà xuất bản Đại học Oxford 2008, trang 89–116). Chắc
chắn, khi Phật giáo du nhập vào thế giới phương Tây, một phần Phật giáo đã
hướng đến các nhà khoa học và giới tinh hoa văn hóa khác. Nhưng tại sao lại như
vậy?
Một mặt, các nhà truyền giáo châu Á như Anagarika Dharmapala (1864–1933) và D.
T. Suzuki (1870–1966) thường là những người thuộc giới tinh hoa trong nền văn
hóa của chính họ. Họ am hiểu sâu sắc cả triết lý của đất nước và nền văn hóa
của họ, lẫn những tư tưởng chủ đạo của phương Tây. Họ tìm cách trình bày Phật
giáo theo những cách dễ hiểu và dễ chấp nhận đối với giới tinh hoa khác. Trong
số những người thuộc giới tinh hoa thời bấy giờ có các triết gia, nhà thơ, nhà
lãng mạn và nhà khoa học—lúc bấy giờ được gọi là các triết gia tự nhiên.
Mặt khác, nhiều người theo Phật giáo ở phương Tây đã làm như vậy khi họ quay
lưng lại với Kitô giáo—một tôn giáo đang thấy mình mâu thuẫn với nhiều sự phát
triển trong tư tưởng và hiểu biết khoa học. Họ nghĩ rằng, có lẽ, Phật giáo có
thể cung cấp một tôn giáo chấp nhận khoa học—hay đúng hơn, một tôn giáo đã nắm
giữ nhiều nguyên lý cốt lõi của khoa học hiện đại, bất kể chúng là gì.
Trong những năm 1950 và 1960, làn sóng người cải đạo mới tìm đến Phật giáo và
các truyền thống trí tuệ phi phương Tây khác. Nhiều Phật tử mới này cũng là
thành viên của cái mà sau này được gọi là “văn hóa đối kháng”. Những Phật tử
này đã nhìn thấy một khía cạnh khác của Phật giáo, một khía cạnh phản ánh nhiều
giá trị của riêng họ về lòng từ bi, hòa bình thế giới, tính bất nhị, và sự nhấn
mạnh vào trải nghiệm cá nhân trực tiếp.
Chính từ môi trường này, các tác phẩm của Curtis White, bao gồm cuốn sách Siêu
Việt: Nghệ thuật và giáo Pháp trong Thời Đại Sụp Đổ (Transcendent: Art and
Dharma in a Time of Collapse - Melville House 2023), đã ra đời. Văn phong của
ông trải dài từ điện ảnh Nhật Bản đến Shunryu Suzuki, từ nghệ thuật Ý thế kỷ 15
đến Friedrich Nietzsche và Jacques Derrida. Tác phẩm của ông đại diện cho phê
bình văn hóa lấy cảm hứng từ Phật giáo của thế kỷ 21 một cách xuất sắc.
Trong cuốn sách, White cho chúng ta biết ông theo đuổi điều gì, trái ngược với
Phật giáo kỹ trị và thương mại hóa mà ông thấy đang lan rộng khắp phương Tây:
Tôi cũng quan tâm đến một hình thức siêu
việt cụ thể hơn nhiều, siêu việt xã hội, vượt lên trên “nghiệp đen” (dark
karma) điều mà Phật giáo gọi là “nguyên nhân và điều kiện” (nhân duyên) của thế
giới mà chúng ta sinh ra. Trong nghiệp (đối với chúng ta, trật tự xã hội tư bản
chủ nghĩa), chúng ta bị xa lánh khỏi thiên nhiên và bản chất con người của
chính mình bởi những gì là phong tục. Đức Phật đã dạy điều này, và Marx,
Nietzsche, và thậm chí cả nhà tiểu luận thế kỷ XVI Michel de Montaigne, người
đã viết: “Phong tục là ông chủ hùng mạnh nhất của vạn vật”.
. . .
Mục đích của Phật giáo là chấm dứt việc
duy trì nghiệp/văn hóa, số phận xã hội của chúng ta, và vượt ra ngoài nó, hướng
đến một thực tại xã hội khác, cộng đồng Tăng đoàn.
(13–14)
Mô tả của White về các nhà khoa học đang tìm cách rao bán một loại “Phật giáo
hạnh phúc” và duy trì hiện trạng, trái ngược với quan điểm lãng mạn của chính
ông về Phật giáo như một hướng đi vượt ra ngoài thế giới văn hóa và xã hội, tái
khẳng định những cuộc tranh luận và sự phát triển trong Phật giáo đã có từ hàng
thiên niên kỷ trước.
Đối với một bộ phận nhỏ Phật tử, con đường chắc chắn và nhanh nhất dẫn đến giác
ngộ thường là mối quan tâm hàng đầu. Họ là những người bỏ cuộc - hay còn gọi là
văn hóa đối kháng - khỏi xã hội của Đức Phật. Họ không hài lòng với trí tuệ
được truyền lại từ các bậc trưởng lão, những người mà kinh nghiệm thiền định
của họ có thể đã góp phần tạo nên những khởi điểm ban đầu của phong trào Đại
thừa. Họ là những người tranh luận tại Tu viện Samye ở Lhasa, những người am
hiểu sâu sắc về giáo lý và thực hành của họ.
Tuy nhiên, đại đa số Phật tử qua các thời đại chưa hề lập ra trường phái mới
hay tranh luận trước các bậc cầm quyền. Hầu hết thậm chí còn chưa đọc một cuốn
sách, chứ đừng nói đến việc viết một hoặc nhiều cuốn. Đối với những Phật tử
này, văn hóa đối lập có thể hơi quá đáng. Tuy nhiên, nếu các nhà sư Phật giáo
có thể hứa hẹn về thuốc men, giúp xua đuổi ma quỷ, hoặc mang đến khả năng tái
sinh thuận lợi hơn, họ có thể gia nhập. Nhiều cư sĩ Phật giáo trong suốt lịch
sử có lẽ cũng đã ủng hộ các tu sĩ Ấn Độ giáo, Lão giáo, hoặc Thần đạo địa
phương. Họ không có động lực vượt qua nền văn hóa của mình mà chỉ hy vọng tận
dụng tối đa những gì họ có thể trong nền văn hóa đó.
Tương tự như vậy, ngày nay, hầu hết Phật tử đều rơi vào trường hợp này. Đối với
nhiều người hành trì, Phật giáo Tịnh Độ là lý tưởng vì người ta có thể thừa
nhận lỗi lầm của mình trong kiếp này và toàn tâm toàn ý tìm kiếm sự tái sinh ở
một cõi Tịnh Độ, nơi hứa hẹn sự tiến bộ Phật pháp thật sự. Đối với những người
khác, đã chán ngấy với những tuyên bố siêu việt của rất nhiều vị thầy trở thành
lang băm, khó tránh khỏi một mức độ hoài nghi nhất định. Phật giáo vô thần hoặc
bất khả tri của Stephen Batchelor đã được nhiều Phật tử như vậy đón nhận. Những
người hành trì khác, dù có thể tự nhận mình là "Phật tử" hay không,
vẫn dễ dàng tiếp thu những cuốn sách như cuốn "Giáo Pháp về Thần Kinh-
Neurodharma" của Hansen, trong khi tham dự nhà thờ Cơ đốc giáo tự do hoặc
tìm hiểu các truyền thống tôn giáo phi phương Tây khác.
Đối với hầu hết Phật tử qua mọi thời đại, đây chính là cách tôn giáo vận hành,
kết hợp các mảnh ghép từ những truyền thống sẵn có trong nền văn hóa của chính
mình. Điều này đã gây ra nhiều bối rối cho một số sử gia và nhà nhân chủng học,
chẳng hạn như khi đến thăm Thái Lan, một quốc gia được biết đến là Phật giáo
Nguyên thủy, họ chỉ thấy tượng Brahma,
Vishnu và Ganesh nằm cạnh tượng Phật, ngay cả trong các ngôi chùa
Phật giáo.
Đối với một số người, việc pha trộn các vị thần Hindu và các thực hành Phật
giáo là một sự báng bổ. Anagarika Dharmapala nổi tiếng đã bất đồng quan điểm với các đồng
nghiệp theo thuyết thần trí, tuyên bố rằng triết lý của họ chỉ đơn thuần là pha
trộn tất cả các tôn giáo thành một, trong khi đối với Phật tử, giáo Pháp
(Dharma) nổi lên, tách biệt với phần còn lại. Tuy nhiên, đối với nhiều người
khác - bao gồm cả Phật tử vốn hay vẫn là Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và những
người vô thần theo Phật giáo - thì việc pha trộn và vay mượn một phần nào đó là
điều không thể tránh khỏi và có lợi.
Thật vậy, sự pha trộn và vay mượn này đã là một nét đặc trưng của Phật giáo
trong suốt 2.500 năm lịch sử. Chúng ta thấy điều này ở các nền Phật giáo khác
nhau như Tây Tạng và Thái Lan, Sri Lanka và Hàn Quốc, Tokyo và New York. Các
chuyên gia ở mỗi địa phương và thời đại đều khác nhau. Trải nghiệm của nhiều
Phật tử không chuyên thậm chí còn khác biệt hơn.
Trong cuốn sách của mình, White trích dẫn lời nhận định sâu sắc của Shunryu
Suzuki[2]:
Ở Mỹ, chúng ta không thể định nghĩa Thiền
tông theo cách chúng ta làm ở Nhật Bản... Tôi nghĩ các bạn là những người đặc
biệt và muốn có một phương pháp tu tập đặc biệt, không hẳn là phương pháp tu
hành của các nhà sư hay của người tại gia. Các bạn đang trên đường khám phá một
lối sống phù hợp.
Điều này không nhằm phủ nhận hay hạ thấp những hiểu biết sâu sắc trong công
trình của White. Thật vậy, ông đang tiếp nối truyền thống tranh luận lớn trong
lịch sử Phật giáo. Nếu chúng ta đánh mất yếu tố vượt qua văn hóa trong Phật
giáo, tôn giáo này có thể mất đi tia lửa đã duy trì nó trong hai thiên niên kỷ
rưỡi. Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ không vội vàng gạt bỏ những Phật tử lấy cảm
hứng từ khoa học và những nhà khoa học lấy cảm hứng từ Phật giáo của thế giới
hiện đại. Nếu họ không thể cung cấp những gì họ hứa, thay vào đó chỉ lấy tiền
của học viên và không để họ khá hơn, thì nghiệp sẽ bắt kịp họ. Mặt khác, nếu
những lời hứa khiêm tốn hơn của họ, có lẽ được thể hiện rõ nhất trong cuốn sách
của Dan Harris - chuyển thành podcast, thành ứng dụng thiền - 10 % Hạnh Phúc
hơn (10 Percent Happier), được truyền đạt đến nhiều người tiếp nhận sự hướng
dẫn của họ, thì điều này cũng có thể được coi là điều phù hợp./.
***
https://www.buddhistdoor.net/features/buddhistdoor-view-the-place-of-expertise-and-experience-in-buddhism-today/
[1] -Cuộc
Đại Tuyệt chủng thứ Sáu, hay còn gọi là Đại Tuyệt chủng Holocen, là một sự
kiện tuyệt chủng hàng loạt hiện tại, đặc trưng bởi sự gia tăng nhanh chóng của
tình trạng mất mát các loài do con người gây ra, với nhiều nhà khoa học tin rằng
chúng ta đã ở trong giai đoạn này. Do sự phá hủy môi trường sống, biến đổi khí
hậu, ô nhiễm và sự du nhập của các loài xâm lấn, sự kiện này đang tàn phá đa dạng
sinh học với tốc độ tương đương với các cuộc đại tuyệt chủng trước đây do hiện
tượng tự nhiên gây ra. Không giống như các sự kiện trước đây, con người là
nguyên nhân chính, mặc dù đã có những nỗ lực nhằm hạn chế tốc độ tuyệt chủng
thông qua bảo tồn, thay đổi mục đích sử dụng đất và giảm phát thải khí nhà
kính.
[2] Shunryu
Suzuki là một nhà sư và thiền sư phái Sōtō, người đã giúp phổ biến Thiền tông ở
Hoa Kỳ, và nổi tiếng là người thành lập tu viện Thiền Phật giáo đầu tiên bên
ngoài châu Á
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét