Nguyên tác: Science and Spirituality
Biên tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ
Hiệu đính: Tuệ Uyển
***
Tôi cho rằng chủ đề về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức là nơi mà triết học phương Đông - đặc biệt là triết học Phật giáo -
và khoa học phương Tây có thể gặp gỡ. Tôi nghĩ đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh
phúc, không có ly hôn! Nếu chúng ta cùng nhau nỗ lực, không chỉ bởi các học giả
Phật giáo, mà còn bởi những người có kinh nghiệm - và những nhà vật lý hoàn toàn
khách quan, để nghiên cứu, học hỏi và tham gia sâu hơn vào lĩnh vực mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, thì đến thế kỷ tới, chúng ta có thể tìm thấy những
điều tuyệt vời hữu ích. Điều này không nhất thiết phải được coi là một thực
hành tôn giáo, mà có thể được thực hiện đơn giản chỉ để mở rộng kiến thức của
nhân loại.
Ngoài ra, các nhà khoa học đang nghiên cứu trong
lĩnh vực thần kinh học về não bộ con người có thể được hưởng lợi từ những giải
thích của Phật giáo về ý thức, cách thức hoạt động, cách thức nó thay đổi theo
các cấp độ, v.v.
Vì Phật giáo nhấn mạnh vào sự tự sáng tạo, nên
không có một vị thần sáng tạo nào cả, và do đó, theo quan điểm này, một số
người coi Phật giáo, nói một cách nghiêm ngặt, không phải là một tôn giáo. Một
học giả Phật giáo phương Tây nói với tôi: "Phật giáo là một loại khoa học
về tâm trí." Theo nghĩa này, Phật giáo không thuộc về phạm trù tôn giáo.
Tôi cho rằng điều này thật đáng tiếc, nhưng dù sao đi nữa, nó cũng có nghĩa là
Phật giáo đang tiến gần hơn đến khoa học. Hơn nữa, theo quan điểm của một nhà
khoa học thuần túy, Phật giáo tự nhiên được coi là một loại của con đường tâm
linh. Một lần nữa, thật không may là nó không thuộc phạm trù khoa học.
Quan điểm hay triết lý cơ bản của Phật giáo là
duyên khởi. Khi nói về duyên khởi, người ta muốn nói rằng vạn vật tồn tại trong
sự phụ thuộc, hoặc chúng được quy gán tùy thuộc vào điều này hay điều khác.
Trong trường hợp một hiện tượng vật lý, người ta sẽ nói rằng nó tồn tại trong
sự phụ thuộc vào các thành phần của nó, trong khi các hiện tượng phi vật lý
tổng hợp sẽ được mô tả là tồn tại trong sự phụ thuộc vào tính liên tục của
chúng hoặc một khía cạnh của tính liên tục của chúng. Do đó, dù là hiện tượng
bên ngoài hay bên trong, không có gì tồn tại, ngoại trừ sự phụ thuộc vào các thành
phần hoặc khía cạnh của nó.
Nếu người ta nghiên cứu để tìm ra cơ sở cho sự
quy gán trong bất kỳ hiện tượng nào, vì người ta sẽ không tìm thấy bất cứ thứ
gì thật sự là hiện tượng, không một khối vật chất cụ thể nào mà người ta có thể
chỉ tay vào để đại diện cho hiện tượng - thì người ta kết luận rằng hiện tượng
tồn tại thông qua sự quy gán của tâm.
Vì hiện tượng không tồn tại độc lập với tâm quy
gán, nên người ta nói đến tính Không, nghĩa là sự thiếu vắng bất kỳ sự tồn tại
nội tại nào không phụ thuộc vào tâm quy gán. Vì sự vật không tồn tại tự thân,
mà phụ thuộc vào các điều kiện, nên chúng thay đổi bất cứ khi nào gặp phải các
điều kiện khác nhau. Do đó, chúng tồn tại phụ thuộc vào các điều kiện và chúng
chấm dứt phụ thuộc vào các điều kiện. Chính sự thiếu vắng bất kỳ sự tồn tại nội
tại nào, độc lập với nhân và duyên, là cơ sở cho tất cả những thay đổi có thể
xảy ra trong một hiện tượng, chẳng hạn như sinh, diệt, v.v.
Có thể sẽ rất thú vị khi so sánh cách diễn giải
khoa học về vai trò của người quan sát hoặc người tham gia với quan điểm Phật
giáo rằng các hiện tượng được quan sát không chỉ tồn tại như một hình ảnh tinh
thần, một sự phóng chiếu hay tầm nhìn của tâm trí, mà là những thực thể riêng
biệt với tâm trí. Tâm trí và vật chất là hai thực thể riêng biệt. Vật chất tách
biệt với tâm trí vốn nhận thức và chi phối nó. Điều này có nghĩa là, xét về tất
cả các hiện tượng không có ngoại lệ - mặc dù chúng không chỉ đơn thuần là sự
sáng tạo hay biểu hiện của tâm trí mà không có thực thể riêng của chúng-Phương
thức tồn tại tối hậu của chúng phụ thuộc vào tâm thức quy gán chúng, tức là
người quy gán. Do đó, phương thức tồn tại của chúng hoàn toàn tách biệt với
người quy gán, nhưng bản thân sự tồn tại của chúng lại phụ thuộc vào người quy
gán. Quan điểm này có lẽ phù hợp với cách giải thích khoa học về vai trò của
người quan sát. Mặc dù các thuật ngữ khác nhau được sử dụng để giải thích
chúng, nhưng ý nghĩa của chúng phần nào có liên quan.
Thoạt nhìn, duyên khởi và tính Không có vẻ hoàn
toàn trái ngược nhau. Tuy nhiên, nếu phân tích chúng ở một mức độ sâu sắc hơn,
ta có thể hiểu rằng các hiện tượng, do tính chất trống rỗng của chúng, là duyên
khởi hoặc tồn tại; và bởi vì sự tồn tại phụ thuộc đó, nên bản chất là trống
rỗng. Do đó, ta có thể thiết lập cả tính Không và duyên khởi trên cùng một nền
tảng; và hai mặt, nhìn chung có vẻ mâu thuẫn, nhưng khi được hiểu ở một mức độ
sâu sắc hơn, sẽ được thấy là phù hợp với nhau một cách rất bổ sung.
Phương thức tồn tại của các hiện tượng được phân
biệt với phương thức xuất hiện của chúng. Các hiện tượng xuất hiện trước tâm
trí khác với phương thức tồn tại thật sự của chúng.
Khi tâm trí nắm bắt cách chúng xuất hiện, chấp
nhận sự xuất hiện đó là đúng, và đi theo ý tưởng hay khái niệm cụ thể đó, thì
ta sẽ phạm sai lầm. Vì khái niệm đó hoàn toàn bị bóp méo trong cách nó nắm bắt
đối tượng, nên nó mâu thuẫn với phương thức tồn tại thực tế, hay chính thực
tại. Vì vậy, sự khác biệt hay mâu thuẫn này giữa cái đang tồn tại và cái xuất
hiện là do thực tế rằng, mặc dù các hiện tượng trên thực tế không có bất kỳ bản
chất nội tại nào, nhưng chúng lại xuất hiện với tâm trí thông thường như thể
chúng tồn tại một cách cố hữu, mặc dù chúng không có bất kỳ phẩm chất nào như
vậy. Tương tự như vậy, mặc dù trên thực tế, những thứ phụ thuộc vào nguyên nhân
là vô thường và tạm bợ, trải qua sự thay đổi liên tục, chúng lại xuất hiện như
thể chúng là thường hằng và bất biến. Một lần nữa, một điều gì đó trong bản
chất thật sự của nó là đau khổ lại xuất hiện như hạnh phúc. Và một điều gì đó
trong thực tế là sai lầm lại xuất hiện như đúng. Có nhiều cấp độ tinh tế liên
quan đến mâu thuẫn này giữa phương thức tồn tại của các hiện tượng và phương
thức xuất hiện của chúng. Kết quả của mâu thuẫn giữa cái đang tồn tại và những
gì xuất hiện, đủ loại sai lầm đều được mắc phải. Lời giải thích này có thể có
nhiều điểm chung với quan điểm của các nhà khoa học về sự khác biệt trong cách
thức xuất hiện và tồn tại của một số hiện tượng.
Chúng ta có thể hỏi: "Làm thế nào các cấp
độ khác nhau của ý thức hay tâm thức lãnh hội một vật thể thật sự tồn
tại?". Các cấp độ ý thức khác nhau được thiết lập liên quan đến các cấp độ
tinh tế khác nhau của năng lượng bên trong, thứ kích hoạt và dẫn dắt ý thức
hướng đến một vật thể nhất định. Vì vậy, mức độ tinh tế và sức mạnh của chúng trong
việc dẫn dắt ý thức hướng đến vật thể quyết định và thiết lập các cấp độ ý thức
khác nhau. Việc suy ngẫm về mối quan hệ giữa ý thức bên trong và các chất liệu
vật chất bên ngoài là rất quan trọng. Nhiều triết lý phương Đông, đặc biệt là
Phật giáo, nói về bốn yếu tố: đất, nước, lửa và khí; hay ngũ đại, cộng thêm
không gian. Bốn yếu tố đầu tiên - đất, nước, lửa và khí - được hỗ trợ bởi các
yếu tố không gian, cho phép chúng tồn tại và hoạt động. Do đó, không gian hay
bầu trời (ether) đóng vai trò là nền tảng cho sự hoạt động của tất cả các yếu
tố khác.
Năm yếu tố này có thể được chia thành hai loại:
ngũ đại bên ngoài và ngũ đại bên trong. Có một mối quan hệ nhất định giữa ngũ
đại bên ngoài và ngũ đại bên trong. Các nguyên tố. Về nguyên tố không gian hay
bầu trời (ether), theo một số văn bản Phật giáo, chẳng hạn như Thời Luân Mật
Tông (Kalachakra Tantra), không gian không chỉ là một khoảng không hoàn toàn
trống rỗng, không có bất cứ thứ gì, mà nó được biểu thị dưới dạng các hạt rỗng.
Do đó, các hạt rỗng này đóng vai trò là cơ sở cho sự tiến hóa và tan rã của bốn
nguyên tố còn lại. Chúng được tạo ra từ nó và cuối cùng được hấp thụ trở lại
vào nó.
Quá trình tan rã diễn ra theo thứ tự này: đất,
nước, lửa và khí; và quá trình sinh ra theo thứ tự này: khí, lửa, nước và đất.
Bốn nguyên tố này được hiểu rõ hơn dưới dạng rắn (đất), lỏng (nước), nhiệt
(lửa) và năng lượng (khí). Bốn nguyên tố được tạo ra từ cấp độ vi tế đến thô,
từ cơ sở các hạt rỗng này, và tan rã từ cấp độ thô đến vi tế thành các hạt
rỗng. Không gian, hay hạt rỗng, là cơ sở cho toàn bộ quá trình. Mô hình vụ nổ
lớn big bang về sự khởi đầu của vũ trụ có lẽ có một số điểm chung với hạt rỗng
này. Những điểm tương đồng như vậy cho thấy điều gì đó mà tôi cảm thấy đáng để
suy ngẫm.
Theo quan điểm tâm linh của Phật giáo, trạng
thái tâm trí của chúng ta, dù có kỷ luật hay không, đều tạo ra cái gọi là
nghiệp. Điều này được chấp nhận trong nhiều triết lý phương Đông. Nghiệp, nghĩa
là hành động, có ảnh hưởng đặc biệt đến các yếu tố bên trong, từ đó ảnh hưởng đến
các yếu tố bên ngoài. Đây cũng là một điểm cần được nghiên cứu thêm.
Một lĩnh vực khác trong Phật giáo Tây Tạng, có
thể được các nhà khoa học quan tâm, là mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý với
các dây thần kinh, và ý thức; cụ thể là mối quan hệ giữa các yếu tố trong não
bộ và ý thức. Liên quan ở đây là những thay đổi trong ý thức, trạng thái tâm
trí vui vẻ hay buồn bã, v.v.; loại ảnh hưởng mà chúng gây ra cho các yếu tố bên
trong não bộ; và hậu quả của chúng đối với cơ thể. Một số bệnh lý thể chất sẽ cải
thiện hoặc trở nên tồi tệ hơn tùy thuộc vào trạng thái của tâm trí. Về mối quan
hệ giữa thân và tâm này, Phật giáo chắc chắn có thể đóng góp cho khoa học hiện
đại.
Phật giáo cũng giải thích, với độ chính xác cao,
các cấp độ vi tế khác nhau trong chính ý thức. Những điều này được mô tả rất rõ
ràng trong các Mật điển. Ý thức được phân loại, từ góc độ các cấp độ vi tế của
nó, thành ba cấp độ: trạng thái thức hay cấp độ ý thức thô; ý thức của trạng
thái mơ, vi tế hơn; và ý thức trong giấc ngủ sâu, không mơ, vi tế hơn nữa.
Tương tự, ba giai đoạn sinh, tử và trung ấm cũng
được thiết lập dựa trên mức độ vi tế của các cấp độ ý thức của chúng. Trong quá
trình chết, một người trải nghiệm ý thức vi tế sâu thẳm nhất; ý thức trở nên
thô hơn sau khi chết ở trạng thái trung ấm, và dần dần thô hơn trong quá trình
sinh ra. Trên cơ sở sự liên tục của dòng ý thức, sự tồn tại của tái sinh và
hiện thân được thiết lập. Hiện nay, có một số trường hợp được ghi chép rõ ràng
về những cá nhân nhớ rõ tiền kiếp của mình, và việc nghiên cứu những hiện tượng
này dường như rất đáng giá, nhằm mục đích mở rộng kiến thức của nhân loại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét