Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI: Phát Tâm Giác Ngộ (tâm bồ đề)


Nguyên bản: Generating the Mind of Enlightenment
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên
tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ

Hiệu
đính: Tuệ Uyển
***


Để phát tâm giác ngộ, chúng ta quán chiếu rằng, cũng như chính chúng ta, tất cả chúng sinh khác đều có khuynh hướng tự nhiên mong muốn hạnh phúc và tránh xa khổ đau. Một cá nhân đơn độc trong khi những người khác thì vô số. Nói cách khác, một người là thiểu số; những người khác là số đông.

Họ cũng vậy, họ muốn hạnh phúc. Một lần nữa, hãy quán chiếu rằng cũng như tôi muốn hạnh phúc, tôi không muốn khổ đau, và họ cũng không muốn khổ đau; và có một mối quan hệ rõ ràng giữa tôi và họ. Chúng ta phụ thuộc vào người khác, chúng ta không thể đạt được bất kỳ hạnh phúc nào: không phải trong quá khứ, không phải hôm nay, không phải vào người khác, và không phải trong tương lai.

Nếu chúng ta nghĩ nhiều hơn về lợi ích và phúc lợi của người khác, cuối cùng chính chúng ta sẽ gặt hái được lợi ích.

Suy nghĩ theo hướng này, chúng ta thấy rằng khi so sánh hai điều, bản thân và người khác, thì người khác quan trọng hơn. Chúng ta đi đến kết luận rằng số phận của chính mình chỉ là vấn đề của một người. Nếu một người phải chịu đau khổ để mang lại hạnh phúc cho vô số người khác, thì việc chịu đau khổ thật sự đáng giá. Ngược lại, nếu để đạt được hạnh phúc cho một người mà nhiều người khác phải chịu đau khổ, thì có điều gì đó không ổn trong quan điểm này.

Để tiếp cận việc thực hành tu tập tâm giác ngộ, hay phát tâm bồ đề, khát vọng đạt giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh, trước tiên chúng ta phải đạt được tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng trong bối cảnh này có nghĩa là vun trồng một trạng thái tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, một trạng thái không bị ảnh hưởng bởi lòng ham muốn bạn bè, lòng căm thù kẻ thù hay sự thờ ơ đối với những người trung lập. Chúng ta hướng đến tất cả chúng sinh. Tìm kiếm một trạng thái tâm bình đẳng.

Nói chung, có bốn loại sinh: sinh từ bụng mẹ (thai), sinh từ trứng (noãn), sinh từ nhiệt (thấp) và sinh từ phép lạ (hóa).

Sinh từ bụng mẹ hay sinh từ trứng, chúng ta cần một người mẹ. Ví dụ, hôm nay, mặc dù mẹ tôi trong kiếp này đã mất cách đây vài năm, nhưng vào một thời điểm nào đó, tất cả các bạn đã từng là mẹ của tôi. Về mặt logic, chúng ta có thể không chắc chắn về điều đó, nhưng chúng ta có thể phát triển cảm nhận rằng các bạn đã từng là mẹ của tôi.

Trên cơ sở đó, chúng ta nên suy ngẫm về những ân huệ nhận được khi những chúng sinh này là mẹ của tôi trong những kiếp trước. Tương tự như vậy, rồi thì chúng ta thiền quán về những người khác đã từng là những người cha hay những người thân thích hay những người bạn của chúng ta trong những kiếp trước.

Nếu đúng như vậy, thì chúng ta nên nhớ rằng lòng tốt của họ dành cho chúng ta hẳn là vô hạn. Vì số kiếp của chúng ta là vô thủy, nên chúng ta hẳn đã được thụ thai vô số lần, nhiều lần là một đứa con cho mỗi kiếp. Đó là giai đoạn thứ ba.

Giai đoạn thứ tư là sự ghi nhớ đặc biệt về lòng tốt. Điều này thật sự không chỉ dành cho những người thân cận mà còn cho tất cả chúng sinh.

Sự sống còn của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Ví dụ, nếu quần áo của chúng ta làm bằng vải cotton, thì vải cotton đến từ những cánh đồng, từ những người lao động đã làm việc trên chúng không chỉ trong thế hệ này mà còn trong các thế hệ trước. Rồi đến nhà cửa của chúng ta, căn phòng này chẳng hạn. Hôm nay trời khá nóng, nhưng ngoài ra chúng ta rất thoải mái. Sự thoải mái này là kết quả của những gian khổ mà nhiều người lao động đã phải chịu đựng, họ đã cống hiến sức lực, họ đã đổ mồ hôi và làm việc cho đến khi tay họ bị lở loét và lưng còng.

Cho đến ngày nay, sự sống còn của chúng ta vẫn phụ thuộc vào lương thực. Nghĩ về bản thân mình, nếu tôi tưởng tượng tất cả những ổ bánh mì tôi đã ăn chất đống chúng sẽ tạo thành một ngọn núi lớn. Và sữa tôi đã uống sẽ tạo thành một cái ao. Nếu một người không ăn chay, thì người đó sẽ tiêu thụ một núi thịt khác. Người ăn chay ăn đủ loại trái cây và rau củ. Tất cả những thứ này không phải tự nhiên mà có. Nó không tự nhiên mà có, mà được tạo ra nhờ công sức lao động của biết bao người.

Và những tên tuổi lớn của mọi người. Ngay cả danh tiếng cũng đến từ người khác, Nếu chỉ có một người, thì sẽ không thể trở thành nổi tiếng. Danh tiếng đến từ cửa miệng của nhiều người. Điều đó cũng tùy thuộc vào những người khác.

Nhà cửa đến từ người khác; thức ăn đến từ người khác; quần áo đến từ người khác. Chúng ta có thể nghĩ, "Ồ, nhưng tôi đã trả tiền cho tất cả những thứ này, mua chúng với một số tiền nhất định. Không có tiền, tôi không thể có thức ăn hay bất cứ thứ gì khác."

Nhưng số tiền đó cũng không đến từ miệng của bạn. Nó đến từ tay của rất nhiều người. Sự tồn tại của cuộc sống chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Rồi bạn có thể nghĩ, "Vâng, đây là sự thật, nhưng những người khác không cố ý giúp tôi. Họ làm vậy như một hệ quả phụ của nỗ lực sinh tồn."

Đúng vậy. Nhưng tôi trân trọng nhiều thứ mà không hề bận tâm. Ví dụ, nếu chiếc đồng hồ của tôi rơi xuống sàn và vỡ, tôi sẽ cảm thấy mất mát. Điều này không có nghĩa là chiếc đồng hồ này có tình cảm với tôi hay tốt bụng với tôi. Nó hữu ích với tôi, nên tôi quan tâm.

Tương tự như vậy, tất cả những người đó có thể không cố ý làm bất cứ điều gì cho chúng ta, nhưng vì công việc của họ hữu ích với chúng ta, chúng ta nên ghi nhận và ghi nhớ lòng tốt của họ. Chúng ta phải nhận thức được rằng mặc dù người khác không có động lực để giúp đỡ chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phụ thuộc vào sự đóng góp và nỗ lực của họ cho sự sinh tồn của chính mình.

Suy nghĩ về những điều này và quán chiếu về lòng tốt của người khác trở thành một thực hành rất sâu rộng.

Thực hành lòng từ bi, lòng tử tế và lòng vị tha là một điều gì đó rất tuyệt vời. Đôi khi tôi bị cuốn hút bởi sức mạnh của bộ não con người. Trái tim con người có thể tạo ra một trạng thái tâm trí vị tha đến vậy, một trạng thái có thể trân trọng người khác hơn chính bản thân mình. Những điều này thật sự đáng kinh ngạc.

Chúng ta không thể thực tập như thế này nếu không có những chúng sinh khác. Một trong những điều quan trọng nhất là những chúng sinh. Không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm từ bi; không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm thương yêu, lòng tử tế chân thành, lòng vị tha, tâm giác ngộ .

Không có thắc mắc về điều này. Chúng ta tôn trọng chư Phật, chư Bồ tát và các chúng sinh cao cấp, nhưng để trau dồi những phẩm chất tốt đẹp này, thì chúng sinh quan trọng hơn các vị Phật. Ở cấp độ thông thường này, chính sự tồn tại của chúng ta lệ thuộc vào sự tử tế với các chúng sinh khác, và ngay cả việc nhận ra con đường mà ta cất bước trong sự thanh lọc tâm linh cũng lệ thuộc vào những người khác.

Ví dụ, để thực hành lòng từ bi hay lòng vị tha chân chính, chúng ta cần sự bao dung. Không có sự bao dung thì không thể thực hành. Sự tức giận và thù hận là những rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi và tình yêu thương. Để đối trị hận thù, lòng khoan dung là yếu tố then chốt. Để thực hành lòng bao dung, chúng ta cần một kẻ thù. Kẻ thù sẽ không muốn giúp đỡ chúng ta một cách vô điều kiện, nhưng nhờ hành động của kẻ thù, chúng ta có cơ hội để thực hành bao dung.

Cơ hội vàng là khi chúng ta đối mặt với kẻ thù. Tất cả chúng sinh, nhưng đặc biệt là kẻ thù của chúng ta, là rất quan trọng đối với việc phát triển tâm linh của chúng ta. Sự thực hành tâm linh của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, và sự sống còn của chúng ta cũng phụ thuộc vào người khác. Từ quan điểm đó, không chỉ những người bạn thân mà tất cả chúng sinh đều rất quan trọng đối với chúng ta.

Đó là bước thứ tư trong thiền tập.

Bước thứ năm là về cách phát triển ý nghĩ đền đáp công ơn của người khác.

Bước thứ sáu là bình đẳng bản thân với người khác. Ý nghĩa của điều này là nhận ra rằng cũng như bản thân chúng ta không mong muốn đau khổ và mong muốn hạnh phúc, thì các chúng sinh khác cũng có cùng bản chất tự nhiên như vậy. Nghĩ như vậy, chúng ta phát triển phẩm chất cân bằng này.

Chúng ta nên nghĩ về người khác như một phần cơ thể của chính mình. Trong những lúc hoạn nạn, bạn cần bảo vệ tất cả các bộ phận trên cơ thể mình.

Thái độ của bạn đối với những chúng sinh khác nên là họ là "của tôi". Khi điều gì đó làm tổn thương một chúng sinh khác, nó sẽ làm tổn thương chúng ta. Khi chúng ta mở rộng loại cảm xúc đó của chính mình đến tất cả chúng sinh, thì tất cả họ đều trở nên như gia đình. Nếu có ai bị tổn thương, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó như chính nỗi đau của mình. Đây là giai đoạn thứ sáu.

Giai đoạn thứ bảy là quán chiếu về nhiều bất lợi của tư tưởng tự yêu mến bản thân. Tôi thường nói với mọi người rằng một động lực rất vị kỷ, mặc dù xuất phát từ mong muốn ích kỷ về điều gì đó tốt đẹp cho bản thân, nhưng cuối cùng lại mang đến nhiều vấn đề. Sát sinh, trộm cắp, nói dối: Tất cả những hành động này đều xấu, không chỉ theo quan điểm tôn giáo mà còn theo luật pháp. Tất cả những hành động tiêu cực này đều phát sinh do lòng ích kỷ.

Ở cấp độ con người, cãi vã giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, hàng xóm với hàng xóm, quốc gia với quốc gia, là do sự hỗn loạn nội tâm. Tất cả những hành động tiêu cực, đáng tiếc này cuối cùng đều do lòng ích kỷ.

Mặt khác, lòng vị tha thật sự là nguồn gốc chính của hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp đỡ người khác, nếu chúng ta thể hiện sự cởi mở và chân thành với người khác, thì bản thân chúng ta cũng sẽ được lợi ích rất lớn. Ví dụ, chúng ta sẽ dễ dàng kết bạn.

Tôi thường cảm thấy rằng mặc dù người Tây Tạng chúng tôi là những người tị nạn và không quốc tịch, miễn là chúng ta chân thành, trung thực và luôn nở nụ cười, chúng tôi sẽ dễ dàng kết bạn. Ngay cả khi chúng tôi đến Liên Xô hay bất cứ nơi nào, chúng ta sẽ tìm thấy những người bạn tốt. Nhưng nếu chúng tôi ích kỷ và coi thường người khác, thì chúng tôi sẽ không thể tìm thấy bạn bè ở bất cứ đâu.

Việc nuôi dưỡng tư tưởng yêu thương người khác hơn chính mình sẽ mang lại lợi ích to lớn. Sự phát triển tâm linh, việc đạt được những trạng thái cao hơn, sự tái sinh cao hơn trong những kiếp tương lai, cũng như việc đạt được giải thoát và giác ngộ, tất cả đều phụ thuộc vào việc yêu thương người khác.

Giai đoạn thứ chín là tư tưởng thật sự hoán đổi bản thân với người khác. Đây là một trạng thái tâm đã được khởi tạo từ một quá trình trước đó. Ở đây, chúng ta có cảm giác tự nhiên muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh khác.

Ở đây, chúng ta tham gia vào thiền định "cho và nhận". Chúng ta hình dung việc mình gánh vác những khó khăn của người khác, điều này nhằm nhấn mạnh việc thực hành lòng từ bi. Sau đó, chúng ta quán tưởng trao tặng chúng sinh khác cả hạnh phúc lẫn nhân duyên của hạnh phúc. Điều này củng cố thực hành yêu thương của chúng ta.

Tiếp theo là thái độ đặc biệt, tư tưởng về trách nhiệm vô biên. Điều này được tạo điều kiện thuận lợi nhờ kết quả của thiền tập trước đó.

Chính tư tưởng này cuối cùng sẽ phát khởi tâm giác ngộ, khát vọng đạt được giác ngộ cao nhất vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Đây là bước thứ mười một và cũng là bước cuối cùng của thiền tập.

Trong hệ thống này, cả truyền thống tu tập tâm giác ngộ do Vô Trước giảng giải và truyền thống do Tịch Thiên giảng giải đều được tích hợp.

Dựa trên động lực trên, hãy đọc bài kệ sau.

Con xin quy y Đức Phật, Pháp và Tăng Đoàn Tối Thượng
cho đến khi đạt được giác ngộ.
Nhờ sức mạnh của các thực hành, giống như sáu ba la mật,
Nguyện giác ngộ được thành tựu vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Nhắc lại những lời này với một cảm xúc vị tha chân thành mạnh mẽ, những lời này như nhiên liệu để ngọn lửa thật sự bùng cháy bên trong bạn.

Lặp lại đoạn văn ba lần hoặc nhiều hơn. Có thể thực hiện bằng tiếng Anh hoặc tiếng mẹ đẻ của bạn./.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét