Nguyên bản:
Generating the Mind of Enlightenment
Tác giả:
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ
Hiệu đính: Tuệ Uyển
***
Để phát tâm giác ngộ, chúng ta quán chiếu rằng,
cũng như chính chúng ta, tất cả chúng sinh khác đều có khuynh hướng tự nhiên
mong muốn hạnh phúc và tránh xa khổ đau. Một cá nhân đơn độc trong khi những
người khác thì vô số. Nói cách khác, một người là thiểu số; những người khác là
số đông.
Họ cũng vậy, họ muốn hạnh phúc. Một lần nữa, hãy
quán chiếu rằng cũng như tôi muốn hạnh phúc, tôi không muốn khổ đau, và họ cũng
không muốn khổ đau; và có một mối quan hệ rõ ràng giữa tôi và họ. Chúng ta phụ
thuộc vào người khác, chúng ta không thể đạt được bất kỳ hạnh phúc nào: không
phải trong quá khứ, không phải hôm nay, không phải vào người khác, và không
phải trong tương lai.
Nếu chúng ta nghĩ nhiều hơn về lợi ích và phúc
lợi của người khác, cuối cùng chính chúng ta sẽ gặt hái được lợi ích.
Suy nghĩ theo hướng này, chúng ta thấy rằng khi
so sánh hai điều, bản thân và người khác, thì người khác quan trọng hơn. Chúng
ta đi đến kết luận rằng số phận của chính mình chỉ là vấn đề của một người. Nếu
một người phải chịu đau khổ để mang lại hạnh phúc cho vô số người khác, thì
việc chịu đau khổ thật sự đáng giá. Ngược lại, nếu để đạt được hạnh phúc cho
một người mà nhiều người khác phải chịu đau khổ, thì có điều gì đó không ổn
trong quan điểm này.
Để tiếp cận việc thực hành tu tập tâm giác ngộ,
hay phát tâm bồ đề, khát vọng đạt giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh,
trước tiên chúng ta phải đạt được tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng trong bối cảnh
này có nghĩa là vun trồng một trạng thái tâm bình đẳng đối với tất cả chúng
sinh, một trạng thái không bị ảnh hưởng bởi lòng ham muốn bạn bè, lòng căm thù
kẻ thù hay sự thờ ơ đối với những người trung lập. Chúng ta hướng đến tất cả
chúng sinh. Tìm kiếm một trạng thái tâm bình đẳng.
Nói chung, có bốn loại sinh: sinh từ bụng mẹ
(thai), sinh từ trứng (noãn), sinh từ nhiệt (thấp) và sinh từ phép lạ (hóa).
Sinh từ bụng mẹ hay sinh từ trứng, chúng ta cần
một người mẹ. Ví dụ, hôm nay, mặc dù mẹ tôi trong kiếp này đã mất cách đây vài
năm, nhưng vào một thời điểm nào đó, tất cả các bạn đã từng là mẹ của tôi. Về
mặt logic, chúng ta có thể không chắc chắn về điều đó, nhưng chúng ta có thể
phát triển cảm nhận rằng các bạn đã từng là mẹ của tôi.
Trên cơ sở đó, chúng ta nên suy ngẫm về những ân
huệ nhận được khi những chúng sinh này là mẹ của tôi trong những kiếp trước.
Tương tự như vậy, rồi thì chúng ta thiền quán về những người khác đã từng là
những người cha hay những người thân thích hay những người bạn của chúng ta
trong những kiếp trước.
Nếu đúng như vậy, thì chúng ta nên nhớ rằng lòng
tốt của họ dành cho chúng ta hẳn là vô hạn. Vì số kiếp của chúng ta là vô thủy,
nên chúng ta hẳn đã được thụ thai vô số lần, nhiều lần là một đứa con cho mỗi
kiếp. Đó là giai đoạn thứ ba.
Giai đoạn thứ tư là sự ghi nhớ đặc biệt về lòng
tốt. Điều này thật sự không chỉ dành cho những người thân cận mà còn cho tất cả
chúng sinh.
Sự sống còn của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào
người khác. Ví dụ, nếu quần áo của chúng ta làm bằng vải cotton, thì vải cotton
đến từ những cánh đồng, từ những người lao động đã làm việc trên chúng không
chỉ trong thế hệ này mà còn trong các thế hệ trước. Rồi đến nhà cửa của chúng
ta, căn phòng này chẳng hạn. Hôm nay trời khá nóng, nhưng ngoài ra chúng ta rất
thoải mái. Sự thoải mái này là kết quả của những gian khổ mà nhiều người lao
động đã phải chịu đựng, họ đã cống hiến sức lực, họ đã đổ mồ hôi và làm việc
cho đến khi tay họ bị lở loét và lưng còng.
Cho đến ngày nay, sự sống còn của chúng ta vẫn
phụ thuộc vào lương thực. Nghĩ về bản thân mình, nếu tôi tưởng tượng tất cả
những ổ bánh mì tôi đã ăn chất đống chúng sẽ tạo thành một ngọn núi lớn. Và sữa
tôi đã uống sẽ tạo thành một cái ao. Nếu một người không ăn chay, thì người đó
sẽ tiêu thụ một núi thịt khác. Người ăn chay ăn đủ loại trái cây và rau củ. Tất
cả những thứ này không phải tự nhiên mà có. Nó không tự nhiên mà có, mà được
tạo ra nhờ công sức lao động của biết bao người.
Và những tên tuổi lớn của mọi người. Ngay cả
danh tiếng cũng đến từ người khác, Nếu chỉ có một người, thì sẽ không thể trở
thành nổi tiếng. Danh tiếng đến từ cửa miệng của nhiều người. Điều đó cũng tùy
thuộc vào những người khác.
Nhà cửa đến từ người khác; thức ăn đến từ người
khác; quần áo đến từ người khác. Chúng ta có thể nghĩ, "Ồ, nhưng tôi đã
trả tiền cho tất cả những thứ này, mua chúng với một số tiền nhất định. Không
có tiền, tôi không thể có thức ăn hay bất cứ thứ gì khác."
Nhưng số tiền đó cũng không đến từ miệng của
bạn. Nó đến từ tay của rất nhiều người. Sự tồn tại của cuộc sống chúng ta hoàn
toàn phụ thuộc vào người khác. Rồi bạn có thể nghĩ, "Vâng, đây là sự thật,
nhưng những người khác không cố ý giúp tôi. Họ làm vậy như một hệ quả phụ của
nỗ lực sinh tồn."
Đúng vậy. Nhưng tôi trân trọng nhiều thứ mà
không hề bận tâm. Ví dụ, nếu chiếc đồng hồ của tôi rơi xuống sàn và vỡ, tôi sẽ
cảm thấy mất mát. Điều này không có nghĩa là chiếc đồng hồ này có tình cảm với
tôi hay tốt bụng với tôi. Nó hữu ích với tôi, nên tôi quan tâm.
Tương tự như vậy, tất cả những người đó có thể
không cố ý làm bất cứ điều gì cho chúng ta, nhưng vì công việc của họ hữu ích
với chúng ta, chúng ta nên ghi nhận và ghi nhớ lòng tốt của họ. Chúng ta phải
nhận thức được rằng mặc dù người khác không có động lực để giúp đỡ chúng ta,
nhưng chúng ta vẫn phụ thuộc vào sự đóng góp và nỗ lực của họ cho sự sinh tồn
của chính mình.
Suy nghĩ về những điều này và quán chiếu về lòng
tốt của người khác trở thành một thực hành rất sâu rộng.
Thực hành lòng từ bi, lòng tử tế và lòng vị tha
là một điều gì đó rất tuyệt vời. Đôi khi tôi bị cuốn hút bởi sức mạnh của bộ
não con người. Trái tim con người có thể tạo ra một trạng thái tâm trí vị tha
đến vậy, một trạng thái có thể trân trọng người khác hơn chính bản thân mình.
Những điều này thật sự đáng kinh ngạc.
Chúng ta không thể thực tập như thế này nếu
không có những chúng sinh khác. Một trong những điều quan trọng nhất là những
chúng sinh. Không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm từ bi;
không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm thương yêu, lòng tử
tế chân thành, lòng vị tha, tâm giác ngộ .
Không có thắc mắc về điều này. Chúng ta tôn
trọng chư Phật, chư Bồ tát và các chúng sinh cao cấp, nhưng để trau dồi những
phẩm chất tốt đẹp này, thì chúng sinh quan trọng hơn các vị Phật. Ở cấp độ
thông thường này, chính sự tồn tại của chúng ta lệ thuộc vào sự tử tế với các
chúng sinh khác, và ngay cả việc nhận ra con đường mà ta cất bước trong sự
thanh lọc tâm linh cũng lệ thuộc vào những người khác.
Ví dụ, để thực hành lòng từ bi hay lòng vị tha
chân chính, chúng ta cần sự bao dung. Không có sự bao dung thì không thể thực
hành. Sự tức giận và thù hận là những rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi và
tình yêu thương. Để đối trị hận thù, lòng khoan dung là yếu tố then chốt. Để
thực hành lòng bao dung, chúng ta cần một kẻ thù. Kẻ thù sẽ không muốn giúp đỡ
chúng ta một cách vô điều kiện, nhưng nhờ hành động của kẻ thù, chúng ta có cơ
hội để thực hành bao dung.
Cơ hội vàng là khi chúng ta đối mặt với kẻ thù.
Tất cả chúng sinh, nhưng đặc biệt là kẻ thù của chúng ta, là rất quan trọng đối
với việc phát triển tâm linh của chúng ta. Sự thực hành tâm linh của chúng ta
hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, và sự sống còn của chúng ta cũng phụ thuộc
vào người khác. Từ quan điểm đó, không chỉ những người bạn thân mà tất cả chúng
sinh đều rất quan trọng đối với chúng ta.
Đó là bước thứ tư trong thiền tập.
Bước thứ năm là về cách phát triển ý nghĩ đền đáp
công ơn của người khác.
Bước thứ sáu là bình đẳng bản thân với người
khác. Ý nghĩa của điều này là nhận ra rằng cũng như bản thân chúng ta không
mong muốn đau khổ và mong muốn hạnh phúc, thì các chúng sinh khác cũng có cùng
bản chất tự nhiên như vậy. Nghĩ như vậy, chúng ta phát triển phẩm chất cân bằng
này.
Chúng ta nên nghĩ về người khác như một phần cơ
thể của chính mình. Trong những lúc hoạn nạn, bạn cần bảo vệ tất cả các bộ phận
trên cơ thể mình.
Thái độ của bạn đối với những chúng sinh khác
nên là họ là "của tôi". Khi điều gì đó làm tổn thương một chúng sinh
khác, nó sẽ làm tổn thương chúng ta. Khi chúng ta mở rộng loại cảm xúc đó của
chính mình đến tất cả chúng sinh, thì tất cả họ đều trở nên như gia đình. Nếu
có ai bị tổn thương, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó như chính nỗi đau của
mình. Đây là giai đoạn thứ sáu.
Giai đoạn thứ bảy là quán chiếu về nhiều bất lợi
của tư tưởng tự yêu mến bản thân. Tôi thường nói với mọi người rằng một động
lực rất vị kỷ, mặc dù xuất phát từ mong muốn ích kỷ về điều gì đó tốt đẹp cho
bản thân, nhưng cuối cùng lại mang đến nhiều vấn đề. Sát sinh, trộm cắp, nói
dối: Tất cả những hành động này đều xấu, không chỉ theo quan điểm tôn giáo mà
còn theo luật pháp. Tất cả những hành động tiêu cực này đều phát sinh do lòng ích
kỷ.
Ở cấp độ con người, cãi vã giữa vợ chồng, cha mẹ
và con cái, hàng xóm với hàng xóm, quốc gia với quốc gia, là do sự hỗn loạn nội
tâm. Tất cả những hành động tiêu cực, đáng tiếc này cuối cùng đều do lòng ích
kỷ.
Mặt khác, lòng vị tha thật sự là nguồn gốc chính
của hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp đỡ người khác, nếu chúng ta thể hiện sự cởi mở
và chân thành với người khác, thì bản thân chúng ta cũng sẽ được lợi ích rất
lớn. Ví dụ, chúng ta sẽ dễ dàng kết bạn.
Tôi thường cảm thấy rằng mặc dù người Tây Tạng
chúng tôi là những người tị nạn và không quốc tịch, miễn là chúng ta chân
thành, trung thực và luôn nở nụ cười, chúng tôi sẽ dễ dàng kết bạn. Ngay cả khi
chúng tôi đến Liên Xô hay bất cứ nơi nào, chúng ta sẽ tìm thấy những người bạn
tốt. Nhưng nếu chúng tôi ích kỷ và coi thường người khác, thì chúng tôi sẽ
không thể tìm thấy bạn bè ở bất cứ đâu.
Việc nuôi dưỡng tư tưởng yêu thương người khác
hơn chính mình sẽ mang lại lợi ích to lớn. Sự phát triển tâm linh, việc đạt
được những trạng thái cao hơn, sự tái sinh cao hơn trong những kiếp tương lai,
cũng như việc đạt được giải thoát và giác ngộ, tất cả đều phụ thuộc vào việc
yêu thương người khác.
Giai đoạn thứ chín là tư tưởng thật sự hoán đổi
bản thân với người khác. Đây là một trạng thái tâm đã được khởi tạo từ một quá
trình trước đó. Ở đây, chúng ta có cảm giác tự nhiên muốn mang lại lợi ích cho
chúng sinh khác.
Ở đây, chúng ta tham gia vào thiền định
"cho và nhận". Chúng ta hình dung việc mình gánh vác những khó khăn
của người khác, điều này nhằm nhấn mạnh việc thực hành lòng từ bi. Sau đó,
chúng ta quán tưởng trao tặng chúng sinh khác cả hạnh phúc lẫn nhân duyên của
hạnh phúc. Điều này củng cố thực hành yêu thương của chúng ta.
Tiếp theo là thái độ đặc biệt, tư tưởng về trách
nhiệm vô biên. Điều này được tạo điều kiện thuận lợi nhờ kết quả của thiền tập
trước đó.
Chính tư tưởng này cuối cùng sẽ phát khởi tâm
giác ngộ, khát vọng đạt được giác ngộ cao nhất vì lợi ích của tất cả chúng
sinh. Đây là bước thứ mười một và cũng là bước cuối cùng của thiền tập.
Trong hệ thống này, cả truyền thống tu tập tâm
giác ngộ do Vô Trước giảng giải và truyền thống do Tịch Thiên giảng giải đều
được tích hợp.
Dựa trên động lực trên, hãy đọc bài kệ sau.
Con xin quy y Đức Phật, Pháp và Tăng Đoàn Tối
Thượng
cho đến khi đạt được giác ngộ.
Nhờ sức mạnh của các thực hành, giống như sáu ba
la mật,
Nguyện giác ngộ được thành tựu vì lợi ích của
tất cả chúng sinh.
Nhắc lại những lời này với một cảm xúc vị tha
chân thành mạnh mẽ, những lời này như nhiên liệu để ngọn lửa thật sự bùng cháy
bên trong bạn.
Lặp lại đoạn văn ba lần hoặc nhiều hơn. Có thể
thực hiện bằng tiếng Anh hoặc tiếng mẹ đẻ của bạn./.
Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI: Phát Tâm Giác Ngộ (tâm bồ đề)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét