Nguyên tác: The
Sheltering Tree of Interdependence
Biên tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ
** Những
Phẩm chất của một vị Thầy
Mặc dù [có rất nhiều công đức được tích lũy] từ
việc đọc tụng hoặc nghe dù chỉ một lần bản kinh văn này [do Atisha biên soạn,
bao gồm những điểm cốt yếu của tất cả các lời tuyên bố trong kinh điển, nhưng
chắc chắn bạn sẽ tích lũy được nhiều công đức hơn nữa từ việc thật sự giảng dạy
và nghiên cứu Giáo Pháp thiêng liêng [được chứa đựng trong đó]. Do đó, bạn nên
cân nhắc những điểm [để thực hiện điều này một cách đúng đắn].
- Những
Dòng Kinh Nghiệm: Bài kệ 8
Những Dòng Kinh Nghiệm của Lạt Ma Tông Khách Ba
là chìa khóa cho sự kết nối và mối quan hệ giữa tất cả các bản kinh văn khác
nhau. Bài kệ này trình bày cách người thầy nên giảng dạy và cách học trò nên
lắng nghe, để cả việc giảng dạy và lắng nghe đều thành công và hiệu quả. Điều
rất quan trọng là người thầy phải có động lực và thái độ đúng đắn. Nếu người
thầy bị thúc đẩy bởi những khát vọng tầm thường, chẳng hạn như muốn được biết
đến như một học giả vĩ đại, để thu hút tiền bạc hoặc các vật phẩm khác, hoặc để
lôi kéo mọi người dưới ảnh hưởng của mình, thì động lực của người thầy đó chắc
chắn đã bị vấy bẩn.
Điều rất quan trọng là động lực giảng dạy của
người thầy phải là khát vọng trong sáng, vị tha, muốn phục vụ và mang lại lợi
ích cho người khác. Theo giáo lý Tây Tạng truyền thống, người thầy không chỉ
cần đảm bảo động lực thanh tịnh mà cách truyền đạt giáo lý cũng không được sai
sót. Giảng dạy sai sót cũng giống như một ông già ăn; ông ta chỉ nhai thức ăn
mềm và bỏ qua những phần cứng. Tương tự, người thầy không nên chỉ tập trung vào
những điểm đơn giản mà bỏ qua những điểm khó. Người ta cũng nói rằng người thầy
không nên giảng Pháp như quạ xây tổ. Khi quạ xây tổ, không có trật tự hệ thống;
nó hoàn toàn hỗn loạn. Tương tự, người thầy không nên giảng dạy một cách hỗn
loạn mà nên trình bày một cách chính xác, có hệ thống, mang lại lợi ích cho học
trò của mình.
Một phẩm chất lý tưởng khác mà một người thầy
nên có là kiến thức thực nghiệm về chủ đề được giảng dạy. Nếu không thể làm
được điều đó, thì người thầy nên có một số hiểu biết nhất định về việc thực
hành chủ đề đó, để có thể rút ra kinh nghiệm cá nhân. Nếu cũng không thể làm
được điều đó, thì ít nhất người thầy nên có một sự hiểu biết trí tuệ sâu sắc về
chủ đề đó. Như Pháp Xứng (Dharmakirti) đã nói, không có cách nào bạn có thể
tiết lộ cho người khác những điều bạn đang bị 0
che giấu.
Tôi có một người bạn là một bậc thầy vĩ đại và
là một bậc thầy Ấn Độ giáo rất uyên bác. Một hôm, chúng tôi đang nói chuyện về
vấn đề hòa hợp liên tôn và nhu cầu giao tiếp nhiều hơn giữa các tín ngưỡng khác
nhau. Tôi nhận ra rằng tôi hoàn toàn mù tịt về Hồi giáo và không có nhiều liên
hệ với thế giới Hồi giáo. Ông ấy trả lời: "Ồ, không khó lắm đâu. Chỉ cần
học cách trích dẫn vài câu trong kinh Koran và đưa ra một số bình luận ở đây
đó. Như vậy là đủ. Bạn không cần phải biết nhiều hơn nữa."
Một ví dụ nghiêm trọng hơn liên quan đến một học
giả người Đức đã tham dự một buổi thuyết giảng của một vị thầy Tây Tạng. Trong
buổi thuyết giảng, ông nghe thấy những điều mâu thuẫn với một số giáo lý cơ bản
của Đức Phật, vì vậy sau bài giảng, ông đã đến gặp vị thầy và nói rằng dường
như ông đã mắc một số lỗi. Thay vì thừa nhận những lỗi này, vị thầy Tây Tạng
nói: "Ồ, không sao cả. Ông có thể nói những điều như vậy." Điều này
là sai; Điều rất quan trọng đối với giáo viên là phải cẩn thận.
Khi thuyết pháp từ pháp tòa, thân pháp của người
thầy cũng rất quan trọng. Trước khi ngồi xuống, người thầy nên lạy pháp tòa ba
lần. Điều này nhắc nhở họ rằng việc thuyết pháp từ pháp tòa không có nghĩa là
họ được công nhận là bậc vĩ đại hay thánh nhân, mà phản ánh sự tôn kính dành
cho Pháp được giảng dạy. Theo truyền thống Đại thừa, khi Đức Phật thuyết giảng
về trí tuệ hoàn hảo, chính Ngài tự tạo bảo toạ để ngồi lên để biểu lộ sự tôn
kính những kinh điển này, vốn được xem như là mẹ hay cội nguồn, của tất cả các
thánh giả, dù là thinh văn, độc giác, chư Phật toàn giác.
Khi các kinh điển của Đức Phật được các vị
A-la-hán thời kỳ đầu kết tập và sau này
bởi các môn đồ khác của Đức Phật, có những lúc
tất cả các thành viên trong giáo đoàn sẽ cởi bỏ áo cà sa vàng bên ngoài. Bậc
thượng thủ của quá trình kết tập sẽ gấp và xếp chúng lại thành một pháp tòa,
sau đó ngồi trên pháp tòa này và kết tập kinh điển. Tất cả những điều này cho
thấy sự tôn kính to lớn dành cho Pháp.
Sau khi vị lạt ma đã an tọa trên ngai vàng, theo
phong tục Tây Tạng, ngài sẽ tụng một bài kinh quán chiếu về vô thường, để giữ
cho động lực của mình trong sạch và ngăn ngừa sự kiêu ngạo hay tự phụ nảy sinh
trong tâm. Những thực hành như vậy rất quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh
tịnh của người thầy, bởi vì khi bạn ngồi trên ngai cao và mọi người bắt đầu ca
ngợi bạn, sẽ có nguy cơ thật sự bị lòng kiêu ngạo và tự phụ lấn át.
Vì vậy, chúng ta nên ghi nhớ lời dạy của bậc
thầy Tây Tạng Dromtonpa: "Dù cả thế giới tôn kính bạn bằng cách đặt bạn
lên đỉnh đầu họ, hãy luôn ngồi càng thấp càng tốt và giữ sự khiêm nhường."
Trong tác phẩm Vòng Hoa Quý Báu, Long Thọ đã cầu nguyện để trở nên giống như
các nguyên tố đất, nước, lửa và gió, để tất cả chúng sinh đều có thể tận hưởng
và sử dụng. Nếu bạn coi trọng những ý kiến này, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng
mình giỏi hơn người khác hay cố gắng kiểm soát họ.
Việc có động lực trong sáng khi bạn tiếp nhận
giáo lý cũng rất quan trọng; để đảm bảo rằng bạn có ba phẩm chất của một môn đồ
lý tưởng-Một tâm trí khách quan, trí tuệ và sự quan tâm sâu sắc đến giáo lý -
và bạn hãy nuôi dưỡng thái độ đúng đắn. Bằng cách này, bạn sẽ trở thành một
người tiếp nhận giáo lý phù hợp. Bạn nên xem Pháp như một tấm gương, và hành
động của thân, khẩu và ý của bạn chính là những gì tấm gương đó phản chiếu. Hãy
thường xuyên thẩm tra những gì bạn thấy trong tấm gương Pháp và không ngừng cố
gắng điều chỉnh hành vi của mình.
Một đặc điểm trong giáo lý của Đức Phật là nguồn
lực và con đường quán chiếu của bạn càng đa dạng, thì sự hiểu biết và trải
nghiệm của bạn càng hiệu quả, và niềm tin bạn có được càng sâu sắc. Do đó, bạn
phải đảm bảo rằng phương pháp thực hành của bạn là toàn diện và kiến thức của
bạn phải rộng lớn. Đồng thời, bạn cũng phải đảm bảo rằng những điều bạn học
được không chỉ dừng lại ở mức độ trí tuệ. Ngay từ đầu, việc học của bạn nên
hướng đến mục tiêu thực hành. Nếu bạn học mà không mong muốn liên hệ những gì
bạn đang học với cuộc sống của chính mình thông qua thực hành, bạn sẽ có nguy
cơ trở nên chai sạn hoặc thờ ơ.
Các bậc thầy Kadampa vĩ đại thường nói rằng nếu
khoảng cách giữa Pháp và tâm bạn quá lớn đến mức một người có thể bước qua, thì
việc thực hành của bạn chưa thành công. Hãy đảm bảo rằng không có một khoảng
cách nhỏ nhất nào giữa giáo lý và tâm bạn. Bạn cần phải hòa nhập và hợp nhất
Pháp với tâm. Một thành ngữ Tây Tạng nói rằng bạn có thể làm mềm da bằng cách
nhào nó với bơ, nhưng nếu miếng da đó cứng lại vì nó đã được dùng để đựng bơ,
thì dù có cố gắng thế nào đi nữa, bạn cũng không bao giờ có thể làm mềm nó. Vì
ở phương Tây, bạn không đựng bơ trong hộp da, nên có lẽ câu nói đó không hợp
lý, nhưng bạn hiểu ý tôi rồi đấy.
Các bậc thầy Kadampa cũng thường nói rằng nước
Pháp có thể làm ẩm tâm hồn tươi mới, tha thiết của những người mới bắt đầu, dù
họ có thiếu kỷ luật đến đâu, nhưng không bao giờ có thể thấm nhuần tâm trí của
những người đã chai sạn bởi kiến thức.
Vì vậy, học vấn và kiến thức không bao giờ được
phép lấn át lòng nhiệt thành thực hành của bạn, nhưng sự tận tâm thực hành của
bạn cũng không nên cản trở sự quyết tâm học tập của bạn. Hơn nữa, cả kiến thức
và sự tận tâm thực hành của bạn phải được đặt trên nền tảng của trái tim nồng
ấm và từ bi của bạn. Ba phẩm chất học thuật, sự tận tâm với kiến thức và sự tận
tâm với thực hành phải được đặt nền tảng trên một nền tảng ấm áp, thực hành và
từ bi - nên được kết hợp.
Nếu thầy và trò chuẩn bị tâm trí như trên, trò
có thể trải nghiệm sự chuyển hóa, ngay cả khi đang lắng nghe giáo lý.
Cuối cùng, cả trò và thầy nên hồi hướng công đức
của mình cho sự giác ngộ của tất cả chúng sinh.
** Thực Hành
Nương Tựa
Về kiến thức thế gian thông thường, mặc dù trong
sự phân tích cuối cùng, những gì chúng ta học tập đến từ sự nghiên cứu và sự
trưởng thành thông hiểu, nhưng ngay từ đầu chúng ta cần ai đó giới thiệu chủ đề
và dẫn dắt chúng ta vượt qua. Tương tự như vậy, khi nói đến sự chuyển hóa tâm
linh, mặc dù những trải nghiệm thật sự của chúng ta đến từ sự phát triển kiến
thức và thực hành, một lần nữa, chúng ta vẫn cần một vị thầy giàu kinh nghiệm
để chỉ đường cho chúng ta.
Vì vị thầy tâm linh rất quan trọng đối với chúng
ta, nên Lạt Ma Toong Khách Ba đã đi sâu vào chi tiết trong Đại Luận về Các Giai
Đoạn của Con Đường Tu Tập, và thực hành, Lạt Ma Tông đã trình bày chủ đề này
theo ba phạm trù rộng: phẩm chất của vị thầy tâm linh, những phẩm chất cần
thiết cho người học trò và mối quan hệ thầy trò đúng đắn.
** Phẩm Chất
Của Vị Thầy Tâm Linh
Những phẩm chất của một vị thầy phù hợp có thể
được tìm thấy trong các văn bản từ luật tạng cho đến Kim Cang thừa. Vì ở đây
chúng ta đang thảo luận về giáo lý Đại Thừa (Mahayana) nói chung, chúng ta sẽ
xem xét mười phẩm chất của vị thầy được trình bày trong Kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm của Di Lặc:
1. Tâm trí kỷ luật (ám chỉ phẩm chất đã thành
thạo việc rèn luyện cao hơn về giới luật)
2.Tâm trí tĩnh lặng (ám chỉ phẩm chất đã thành
thạo việc rèn luyện cao hơn về thiền định và tập trung)
3. Tâm trí hoàn toàn tĩnh lặng (ám chỉ phẩm chất
đã thành thạo việc rèn luyện cao hơn về trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ vô ngã
[Phạn ngữ: anatman; Tạng ngữ: dag-med])
4. Kiến thức vượt trội hơn kiến thức của học
viên về bất kỳ môn học nào được giảng dạy
5. Năng lượng và nhiệt huyết để giảng dạy cho
học viên
6. Học rộng để có nguồn lực rút ra ví dụ và
trích dẫn
7. Chứng ngộ tánh Không - nếu có thể, một sự
chứng ngộ chân thật về tính Không, nhưng ít nhất phải có một cam kết mạnh mẽ
với việc thực hành tính Không trên cơ sở sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những
giáo lý về tính không.
8. Sự hùng biện và kỹ năng trong việc trình bày
Pháp để việc giảng dạy được hiệu quả
9. Lòng từ bi sâu sắc và sự quan tâm đến hạnh
phúc của học viên mà Giáo lý được truyền dạy (có lẽ là phẩm chất quan trọng
nhất)
10. Khả năng kiên trì duy trì sự nhiệt tình và
cam kết với học trò, không nản lòng dù phải lặp lại giáo lý bao nhiêu lần.
Ba phẩm chất đầu tiên liên quan đến việc thực
hành và trải nghiệm Tam Học Cao Cấp về Giới, Định và Tuệ. Những phẩm chất quan
trọng khác là chứng ngộ Tính Không như bản chất tối hậu của thực tại và lòng từ
bi đối với học trò. Những người đảm nhận vai trò của một người thầy phải đảm
bảo rằng những phẩm chất này hiện hữu trong chính họ.
Khi thảo luận về mười phẩm chất này trong Đại
Luận về Các Giai Đoạn của Con Đường Đạo, Lạt Ma Tông Khách Ba đã nêu ra một
điểm rất quan trọng. Ngài nói rằng nếu tâm ta chưa thuần hóa, thì không có cách
nào ta thuần hóa tâm người khác. Do vậy, trước nhất ta phải tìm cách thuần hóa
tâm thức mình. Ngài tiếp tục nói rằng cung cách những vị thầy tương lai nên
thuần hóa tâm thức mình là qua sự thực hành về tam vô lậu học.
Hơn nữa, không nên giới hạn việc giảng dạy các
giáo lý chỉ một hay hai vấn đề mà nên trình bày những sự thực hành cụ thể với
vị trí kiến thức hoàn toàn trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật.
Lạt Ma Tông Khách Ba kết luận phần này trong Đại
Luận của mình, bằng cách
nhấn mạnh rằng những hành giả tìm kiếm một bậc
thầy tâm linh nên làm quen với mười phẩm chất này rồi thì tìm kiếm chúng trong
những người mà họ tin tưởng cho lợi ích tâm linh của họ. Ngay từ đầu, khi chọn
một vị thầy tâm linh, hãy thẩm tra người mà bạn chọn xem họ có thực sự sở hữu
những phẩm chất này hay không. Nếu làm như thế, bạn sẽ giảm thiểu hiểm họa về
việc sẽ chạm trán với những rắc rối nghiêm trọng về sau.
Nếu không, bạn có thể sử dụng sai tiêu chí để
đánh giá năng lực của một vị thầy. Điều này đã từng xảy ra ở Tây Tạng. Người
Tây Tạng có niềm tin sâu sắc vào Phật pháp, nhưng trình độ hiểu biết của họ
không phải lúc nào cũng ngang bằng với lòng sùng kính. Thay vì đánh giá các vị
thầy tâm linh bằng sự tĩnh lặng bên trong, mọi người thường dựa niềm đam mê của
mình vào biểu hiện bên ngoài, chẳng hạn như một số người theo hầu trong đoàn
tùy tùng của một lạt ma. Nếu một vị lạt ma đang du hành trên đường phố, mọi
người sẽ nói, "Ồ, chắc hẳn ngài là một vị lạt ma rất cao quý." Người
ta thường coi việc vị lạt ma đội một chiếc mũ độc đáo, đeo khăn choàng, vân vân
là một dấu hiệu cho thấy sự vĩ đại về mặt tâm linh của ngài.
Người ta kể rằng khi Atisha lần đầu tiên đến Tây
Tạng, người phiên dịch của ngài, Nagtso Lotsawa, và vua Ngari, Jangchub O, đã
gửi thư mời tất cả các lạt ma Tây Tạng cao cấp đến để tiếp đón vị đạo sư Ấn Độ
vĩ đại này. Một đoàn lạt ma đã đến gặp Atisha, và khi họ cưỡi ngựa đến, có thể
nhìn thấy họ từ khá xa. Tất cả họ đều mặc trang phục rất ấn tượng với mũ đội
đầu cầu kỳ và những thiết kế kỳ lạ, chẳng hạn như đầu quạ. Khi Atisha nhìn thấy
họ, họ, ngài trùm khăn choàng lên đầu với vẻ mặt giả vờ kinh hãi và thốt lên:
"Ôi trời! Ma Tây Tạng đang đến!". Khi các lạt ma xuống ngựa, họ cởi
bỏ áo gấm và trang phục cho đến khi chỉ còn mặc mỗi áo choàng tu sĩ, rồi bước
về phía Atisha, ngài lúc đó rất hài lòng.
Về chủ đề này, chúng ta cũng có thể xem xét cuộc
đời của Milarepa, người tỏa sáng như một trong những viên ngọc quý của các
thiền giả Tây Tạng. Một ngày nọ, lạt ma Naro Bonchung, người đã nghe nói về
danh tiếng vĩ đại của Milarepa, đã đến thăm ngài. Tuy nhiên, khi gặp Milarepa
ngoài đời, ông hoàn toàn bất ngờ, và sau đó nhận xét với một người nào đó:
"Milarepa này nổi tiếng lắm, nhưng khi thật sự gặp ông ấy, trông ông ấy
chẳng khác gì một người ăn xin."
Điều này làm tôi nhớ đến sự khiêm nhường của một
lạt ma vĩ đại khác, bậc thầy Kadampa Dromtonpa. Chuyện kể rằng, có lần, khi
Dromtonpa đang du hành từ nơi này đến nơi khác, ngài gặp một nhà sư Tây Tạng
đang đi bộ một lúc. Vị sư này rất mệt mỏi và đôi giày của ông bắt đầu làm đau
chân, nên ông cởi giày ra và vì Dromtonpa trông giống như một cư sĩ tầm thường,
nên đã nhờ ông mang giày cho mình. Dromtonpa không hề thắc mắc mà vác đôi giày
nặng trĩu trên lưng. Sau đó, khi họ đến gần một tu viện, vị sư nhận thấy tất cả
các nhà sư đều xếp hàng hai bên đường, rõ ràng là đang chờ đón ai đó. Ông tự
nhủ: "Họ không biết mình sắp đến, và dù sao thì, sự đón tiếp này chắc chắn
không dành cho mình", nên ông quay sang Dromtonpa và nói: "Sự chào
đón này rõ ràng là dành cho một người quan trọng. Ông có biết ai không?"
Dromtonpa đáp: "Có thể là dành cho tôi." Vị sư nhìn ông với vẻ kinh
ngạc và nhận ra mình đã làm gì, liền bỏ chạy, bỏ lại đôi giày.
Cũng có một ví dụ gần đây hơn nhiều. Vào khoảng
đầu thế kỷ, có một thiền sư và vị thầy vĩ đại tên là Dza Patrul Rinpoche, người
thật sự là một vị Bồ tát vĩ đại và là hiện thân của giáo lý trong tác phẩm Nhập
Bồ Tát Hạnh của Shantideva. Dza Patrul Rinpoche có rất nhiều đệ tử nhưng thường
sống cuộc đời du hành—bất cứ khi nào định cư ở một khu vực, ngài sẽ bắt đầu thu
hút các đệ tử và đặc biệt là các vị bảo trợ. Sau một thời gian, ngài sẽ thấy nó
quá nhiều và đi nơi khác để tìm sự tĩnh lặng.
lMột ngày nọ, Dza Patrul Rinpoche tìm đến trú ẩn
tại nhà một bà lão và bắt đầu làm việc nhà trong khi tiếp tục theo đuổi việc
thực hành tâm linh của mình. Một ngày nọ, khi đang ở bên ngoài đổ bô tiểu cho
baf lão, một vài vị lạt ma ghé qua nhà bà lão. Họ nói với bà lão rằng họ nghe
nói thầy của họ có thể đang cư trú ở đâu đó trong vùng và hỏi bà có nhìn thấy
ông không. Bà hỏi ông trông như thế nào, và khi họ bắt đầu mô tả diện mạo chung
của ông, loại quần áo ông mặc, vân vân, bà đột nhiên nhận ra rằng người đang ở
ngoài đổ bô của bà chính là Dza Patrul Rinpoche vĩ đại. Bà xấu hổ đến nỗi,
giống như nhà sư trong câu chuyện trước, bà cũng bỏ chạy. Tôi đã nghe câu
chuyện này từ cố Lạt ma Khunu Tenzin Gyaltsen. Khi ngài đang ở bên ngoài dọn
dẹp nhà của người phụ nữ
Mục đích của tất cả những điều này là một vị
thầy Đại thừa chân chính phải là người yêu thích sự giản dị, khao khát được ẩn
danh và, như người Tây Tạng vẫn nói, ẩn mình trong sự cô độc như một con thú bị
thương. Truyền thống Tây Tạng quy định rằng các vị thầy Đại thừa phải có ít
nhất hai phẩm chất cơ bản. Thứ nhất, từ sâu thẳm trái tim, họ nên xem đời sau
quan trọng hơn đời này. Nếu không có điều này, không điều gì người ta làm trở
thành Pháp. Thứ hai, các vị thầy nên xem hạnh phúc của người khác quan trọng
hơn hạnh phúc của chính mình. Nếu không có điều này, không điều gì người ta làm
trở thành Đại thừa.
*Những
Phẩm Chất Của Người Học Trò
Trong Đại Luận, Lạt Ma Tông Khách Ba tiếp tục
thảo luận về ba phẩm chất chính của một người học trò lý tưởng:
1. Một tâm trí khách quan và cởi mở
2. Trí tuệ để phân biệt đúng sai, phù hợp và
không phù hợp
3. Nhiệt huyết và hứng thú với môn học
Tính khách quan và cởi mở là rất quan trọng, bất
kể bạn muốn học gì. Thiên kiến là một trở ngại cho kiến thức. Tính khách quan
đảm bảo rằng bạn đang thực hành Pháp đúng cách và với động lực đúng đắn. Kinh
điển và tác phẩm Tràng Hoa Quý Báu của Long Thọ đều nhấn mạnh
điều này và mô tả bốn cách tiếp cận và thực hành Pháp sai lầm:
1. Thực hành Pháp vì bám víu vào một truyền
thống hoặc phong tục cụ thể
2. Thực hành Pháp vì thù hận hoặc ác cảm
3. Thực hành Pháp để tìm kiếm sự giải thoát tạm
thời khỏi một mối đe dọa thực sự hoặc nhận thức
4. Thực hành Pháp vì vô minh
Về điểm thứ hai, đôi khi người ta quá ghét một
điều gì đó đến mức họ chấp nhận bất cứ điều gì đối lập với nó. Ví dụ, có những
người ở Ấn Độ có động lực thực hành Pháp để phản kháng lại địa vị đẳng cấp
truyền thống của họ là những người tiện dân. Họ tiếp nhận Phật giáo vì những
cảm xúc tiêu cực đối với tôn giáo truyền thống mà họ được thừa hưởng.
Phẩm chất thứ hai của người đệ tử lý tưởng, trí
tuệ, cũng rất quan trọng, bởi vì trí tuệ cho phép bạn phân biệt đúng sai, vân
vân.
Khi bình luận về phẩm chất này và những thái độ
khác nhau mà người hành trì phải có đối với thầy của mình, Lạt ma Tông Khách Ba
viết rằng đệ tử nên đối xử với thầy như những đứa con trung thành và kính
trọng. Điều này không có nghĩa là bạn nên trao dây xích cho bất kỳ ai sẵn lòng
nắm lấy nó, mà chỉ nên trao cho người có đủ phẩm chất. Để chứng minh cho quan
điểm này, ngài trích dẫn một đoạn kinh Luật tạng nói rằng nếu một vị thầy nói
điều gì đó trái với Pháp, bạn không nên tuân theo lời dạy đó. Một đoạn khác nói
rằng nếu một vị thầy nói điều gì đó trái ngược với khuôn khổ tổng thể của con
đường Đức Phật, đệ tử phải chỉ ra lỗi sai đó cho thầy.
Điều này làm tôi nhớ đến một câu chuyện. Vị thầy
Tây Tạng và học giả uyên bác Geshe Sherab Gyatso thường tham dự các buổi thuyết
giảng của một trong những vị thầy của mình. Khi nghe một điểm chính xác, Geshe
Sherab sẽ ngay lập tức khen ngợi và nói, "Vâng, thưa Muchog Rinpoche. Bất
cứ khi nào Muchog Rinpoche đưa ra một số lời chỉ dạy hữu ích. Đây là những chỉ
dẫn mạnh mẽ của Muchog. Thật truyền cảm hứng sâu sắc." Tuy nhiên, nếu
Rinpoche nói điều gì đó trái ngược với giáo lý của Đức Phật, Geshe Sherab sẽ
ngay lập tức bác bỏ những gì thầy mình đã nói, nói rằng, "Không, không,
không. Không ai nên nói những điều như vậy."
Về phẩm chất thứ ba của người học trò, lòng
nhiệt thành và sự quan tâm đến giáo lý, ngay từ đầu của Đại Diễn Giải về Các
Giai Đoạn của Con Đường, khi Lama Tsong-kha-pa tuyên bố ý định viết tác phẩm,
chúng ta thấy một lời kêu gọi sự chú ý của những độc giả có phẩm chất khách
quan, được ban cho khả năng thông minh và mong muốn làm cho cuộc sống của họ có
ý nghĩa. Để làm cho cuộc sống của bạn có ý nghĩa, bạn cần lòng nhiệt thành và
sự quan tâm đến việc thực hành giáo lý; Nếu không, bất cứ điều gì bạn học cũng
giống như việc vẽ một ngọn đèn - nó không soi sáng được gì cả và kiến thức của
bạn vẫn chỉ dừng lại ở mức độ thông tin đơn thuần.
Chúng ta tìm thấy những lời khuyên tương tự từ
các bậc thầy Ấn Độ. Trong những câu kệ chào mừng trong bài bình luận về Hiện Quán Trang Nghiêm của Đức Di
Lặc, Haribhadra nói rằng thầy của ông, Vimuktisena, đã viết một bài bình luận
về Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Vasubandhu, thầy của Vimuktisena, cũng đã viết một
bài bình luận về những kinh này, nhưng đã diễn giải ý nghĩa tối hậu của chúng
theo triết lý Duy Thức. Nhận ra rằng thầy của mình, Vasubandhu, chưa hiểu hết ý
nghĩa của những kinh này, Vimuktisena đã tự viết bài bình luận của mình để sửa
chữa. Điều này cho thấy rằng ngay cả những học trò hết sức sùng kính và tôn
kính thầy của mình cũng nên có trí thông minh để chỉ ra bất kỳ sai lầm nào mà
thầy họ mắc phải.
Một ví dụ khác liên quan đến bậc thầy Ấn Độ
Dharmakirti, người mà thầy của ông là học trò của học giả Dignaga vào thế kỷ
thứ bảy. Dharmakirti đã sử dụng văn bản của Dignaga (Trần Na) trong quá trình nghiên cứu
nhận thức luận. Khi cùng thầy đọc lại văn bản, Dharmakirti nhận ra rằng ngay cả
thầy của mình cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của Trần Na. Khi đề cập điều này với thầy
mình, ngài đã mời thầy viết một bài bình luận, trong đó ngài sẽ lấy lời giải
thích của mình làm đối tượng phê bình.
Tất cả những ví dụ này cho thấy rõ ràng rằng các
bậc thầy vĩ đại thực sự ghi nhớ lời khuyên của Đức Phật rằng các đệ tử không
nên chấp nhận lời Ngài chỉ vì lòng tôn kính mà nên xem xét kỹ lưỡng như người
thợ kim hoàn kiểm tra vàng bằng cách chà xát, cắt và nung, và chỉ chấp nhận
tính xác thực của giáo lý Ngài dựa trên sự phân tích của chính họ.
Đại thừa có truyền thống lâu đời trong việc phân
tích và xem xét chi tiết lời dạy của Đức Phật, sau đó là phương pháp diễn giải
để phân biệt giữa những giáo lý có thể hiểu theo nghĩa đen và những giáo lý cần
được diễn giải sâu hơn. Điều này là cần thiết bởi vì có một số giáo lý trong
kinh điển, nếu hiểu theo nghĩa đen, thực sự mâu thuẫn với lý luận và kinh
nghiệm. Những diễn giải này được đưa ra bởi các hành giả và bậc thầy Đại thừa,
những người có niềm tin kiên định, nhất quán vào Đức Phật, một số người trong
số họ thực sự sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để phụng sự Giáo Pháp. Ngay
cả những bậc thầy tâm linh lỗi lạc như vậy cũng phải chịu sự phân tích phê phán
lời dạy của Đức Phật.
**Thiết Lập Sự Nương Tựa Đúng Đắn
Trong Đại Luận, Lạt ma Tông Khách Ba tiếp tục mô
tả cách thức thực tế để phát triển và thiết lập sự nương tựa đúng đắn vào một
vị thầy tâm linh. Ngài viết: "Nương tựa vào một vị thầy tâm linh là nền
tảng của con đường, bởi vì vị thầy tâm linh là nguồn gốc của mọi lợi ích tạm
thời và (đặc biệt là) tối hậu." Vấn đề ở đây là nếu chúng ta gặp được một
vị thầy tâm linh chân chính, người này có thể giúp chúng ta khai mở con mắt
tỉnh thức và dẫn dắt chúng ta trên con đường.
Việc thực hành nương tựa vào một vị thầy tâm
linh được thực hiện thông qua cả tư tưởng và hành động, nhưng nương tựa thông
qua tư tưởng là chìa khóa. Điều này đòi hỏi sự vun đắp hai phẩm chất chính yếu:
tín tâm và lòng tôn kính. Trong Lam-rim, chúng ta thường tìm thấy những trích
dẫn từ các bản văn Kim Cương thừa. …Chúng ta nên nhận thức vị thầy của mình như
một bậc giác ngộ thực sự, điều quan trọng là phải hiểu được ý nghĩa của pháp tu
này.
Bằng cách khuyến khích bạn vun trồng nhận thức
về bậc thầy của mình, các bản văn Lam-rim không có nghĩa là sự nương tựa như
vậy vào vị thầy tâm linh là không thể thiếu. Nếu bạn nhìn vào cấu trúc của giáo
lý Lam-rim, mặc dù tất cả các pháp tu đều được tổ chức trong khuôn khổ của ba
phạm vi, nhưng các pháp tu sơ cấp và trung cấp được coi là những pháp tu chung,
thuật ngữ "chung" ngụ ý rằng chúng không phải là những pháp tu đầy đủ
hay hoàn chỉnh trong chính chúng.
Các giáo lý sơ cấp thảo luận về nhu cầu vun
trồng sự tu tập để có một sự tái sinh tốt đẹp hơn và bao gồm các pháp tu liên
quan đến nguyện vọng đó. Các giáo lý trung cấp đề cập đến các pháp tu của Tam
Học Cao Cấp là giới, định và tuệ, nhưng ngay cả ở đây chúng vẫn chưa được trình
bày đầy đủ vì chúng vẫn nằm trong bối cảnh của con đường Mahayana (Đại
thừa). Vấn
đề là các bản văn Lam-rim được viết với giả định rằng mục đích tối hậu của hành
giả là bước vào con đường Kim Cương thừa để đạt đến giác ngộ (phạm vi rộng
lớn). Do đó, mặc dù giáo lý Lam-rim trình bày ý tưởng về việc nhận thức vị thầy
của bạn như một bậc giác ngộ thực sự, nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thực
hành tâm linh đều phụ thuộc vào loại nương tựa đó. Việc vun đắp nhận thức về vị
thầy của bạn như một bậc giác ngộ viên mãn chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh Kim
Cương thừa chứ không phải trong các thực hành thông thường.
Sự nương tựa thực sự vào một vị thầy tâm linh
được thực hiện thông qua việc vun đắp những tư tưởng nhất định, đặc biệt là đức
tin, sự ngưỡng mộ và lòng tôn kính, dựa trên sự nhận thức về lòng từ bi vĩ đại
của vị thầy. Tuy nhiên, mọi việc không dừng lại ở đó. Trên thực tế, mục đích
của việc vun đắp những thái độ như vậy là khơi dậy lòng nhiệt thành và sự tận
tâm với việc thực hành của bạn. Bằng cách vun đắp những tư tưởng như ngưỡng mộ
và tôn kính, bạn sẽ phát triển sự trân trọng sâu sắc hơn về những gì vị thầy
tâm linh của bạn hiện thân, và sự cam kết và tận tâm thực hành của bạn sẽ tự
nhiên tăng lên. Cách tốt nhất để cúng dường thầy của bạn là thực hành những gì
bạn đã được dạy. Như Milarepa đã viết: "Tôi không có bất kỳ vật chất nào
để cúng dường thầy tôi, nhưng tôi vẫn có vật phẩm cúng dường tốt nhất - sự thực
hành và kinh nghiệm của tôi."
Câu Hỏi
Hỏi: Nếu tôi không
hiểu lầm những gì ngài đã nói trước đó, một phần của việc thực hành lòng sùng
kính đạo sư là chỉ ra chỗ nào mà bạn nghĩ thầy mình đã sai. Thứ nhất, bạn sẽ
làm gì khi gần như không thể bày tỏ quan điểm bất đồng với thầy mình vì những
người xung quanh có xu hướng ngăn cản việc bày tỏ lời chỉ trích? Thứ hai, làm
thế nào để dung hòa việc giữ những quan điểm khác biệt cơ bản về một số vấn đề
với quan điểm của đạo sư?
Đức Đạt
Lai Lạt Ma: Nếu một vị lạt ma hoặc
đạo sư tâm linh đã làm điều gì đó sai trái cần được chỉ ra, có thể có hai loại
động cơ cho những người xung quanh thầy, chẳng hạn như thị giả hoặc đệ tử thân
cận, cố gắng che giấu hoặc ngăn cản mọi người tiết lộ hoặc chỉ ra điều đó cho
thầy. Một mặt, động cơ của họ có thể hoàn toàn vô hại; họ có thể chỉ đang cố
gắng bảo vệ và giúp đỡ thầy mình. Động cơ như vậy là kết quả của sự thiếu hiểu
biết hơn là sự thao túng tình hình một cách cố ý. Tuy nhiên, ngay cả khi đó là
trường hợp, vẫn có nguy cơ gây hại cho thầy. Trên thực tế, một câu thành ngữ
Tây Tạng nói rằng những đệ tử cực kỳ sùng đạo có thể biến một vị thầy chân
chính thành một vị thầy giả.
Mặt khác, động cơ của những người hầu cận và đệ
tử thân cận có thể trần tục hơn; họ có thể không muốn công khai hành vi sai
trái của thầy mình vì sợ làm tổn hại đến danh tiếng của người đó. Điều này hoàn
toàn sai, và bạn phải tìm cách bày tỏ mối quan tâm của mình với thầy. Tuy
nhiên, điều rất quan trọng là phải đảm bảo rằng động cơ của chính bạn là trong
sáng. Bạn không nên hành động vì thù địch với thầy mình hoặc chỉ vì muốn bày tỏ
sự bất mãn. Như giáo lý Đại thừa đã nêu, chúng ta phải đảm bảo rằng mọi điều
thầy mình dạy đều phù hợp với những giáo lý chính yếu của Đức Phật. Chúng ta
cũng phải thực hành phương châm nương tựa vào giáo lý chứ không phải vào người
thầy.
Trả lời câu hỏi thứ hai của bạn, rất khó có khả
năng bạn sẽ bất đồng quan điểm với thầy mình về mọi vấn đề. Điều đó gần như
không thể. Về cơ bản, bạn nên tiếp nhận và thực hành những lời dạy phù hợp với
giáo lý căn bản của Đức Phật và bỏ qua những điều không phù hợp.
Hỏi: Chúng ta có
cần một vị thầy để giác ngộ hay chỉ cần học Phật, sống đạo đức, tham dự các
buổi thuyết giảng và thực hành thiền định là đủ?
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tất nhiên, chúng ta có thể
thực hành, học hỏi và sống một cuộc sống đạo đức mà không cần thực sự tìm kiếm
một vị thầy. Tuy nhiên, bạn phải hiểu rằng khi nói về giác ngộ, bạn không nói
về điều gì đó có thể đạt được trong vài năm tới mà là về một khát vọng tâm
linh, trong một số trường hợp, có thể mất nhiều kiếp và một vị thầy đủ trình độ
để bạn có thể giao phó hạnh phúc tâm linh của mình, thì tất nhiên, sẽ hiệu quả
hơn nếu bạn giao phó bản thân cho giáo lý Phật thực sự và thực hành trên cơ sở
đó. Nếu bạn không tìm thấy
Tôi có thể kể cho bạn nghe một câu chuyện liên
quan đến điều này. Dromtonpa là một bậc thầy tâm linh vĩ đại, người thực sự
hiện thân cho giáo lý vị tha hoán đổi bản thân và tha nhân. Trên thực tế, vào
cuối đời, ông đã cống hiến hết mình để phục vụ những người mắc bệnh phong. Ngài
sống với họ và cuối cùng mất mạng vì căn bệnh này, đặc biệt là căn bệnh đã làm tổn
thương cằm của ngài.
Khi Dromtonpa hấp hối, ngài tựa đầu vào lòng
Potowa, một trong những đệ tử chính của mình, và ngài nhận thấy Potowa đang
khóc. Potowa nói: "Sau khi thầy viên tịch, chúng con có thể phó thác hạnh
phúc tâm linh cho ai? Chúng con có thể lấy ai làm thầy?" Dromtonpa đáp:
"Đừng lo. Sau khi ta mất, con vẫn sẽ có một vị thầy - Tam Tạng, giáo lý
của Đức Phật. Hãy phó thác bản thân cho Tam Tạng; hãy lấy Tam Tạng làm thầy của
con."
Tuy nhiên, khi chúng ta tiến bước trên con đường
tâm linh, đến một lúc nào đó, chúng ta chắc chắn sẽ gặp được một vị thầy phù
hợp và xứng đáng.
Hỏi: Nhiều kinh
điển mô tả mục tiêu của người hành trì là chính quả vị Phật, nhưng trong số
những vị thầy Phật giáo phương Tây lão luyện, dường như có một xu hướng chấp nhận
những kết quả cục bộ, như thể Phật quả là không thể đạt được. Thái độ mới là
chấp nhận tâm thức luân hồi được phân chia thành các giai đoạn tâm linh và
dường như dựa trên sự bất lực của những vị thầy tinh tấn trong việc tự mình đạt
được sự giải thoát hoàn toàn. Liệu việc tìm kiếm Phật quả ngay trong kiếp này
có còn là một mục tiêu khả thi trong thời kỳ mà Đức Phật tuyên bố sẽ là thời kỳ
đen tối của Phật giáo hay không?
Đức Đạt
Lai Lạt Ma: Nếu ngài hiểu quá trình
đạt được Phật quả từ góc nhìn Đại thừa nói chung, thì việc đạt được Phật quả
trong khoảng thời gian ba vô số kiếp thực ra được cho là phiên bản nhanh chóng.
Một số kinh văn nói về bốn mươi vô số kiếp! Tuy nhiên, theo giáo lý Kim Cương
thừa nói chung, những hành giả có trình độ chứng ngộ cao có thể kéo dài tuổi
thọ và đạt được Phật quả chỉ trong một kiếp. Giáo lý Mật tông Du-già Tối thượng
thừa nhận rằng ngay cả trong kiếp người ngắn ngủi này, khả năng giác ngộ hoàn
toàn vẫn tồn tại.
Cũng có ý tưởng về việc ai đó có thể đạt được
giác ngộ hoàn toàn sau một khóa tu ba năm, điều này không quá khác biệt so với
tuyên truyền của cộng sản Trung Quốc. Tôi đưa ra lời bình luận này một phần là
đùa, nhưng một phần hoàn toàn nghiêm túc: thời gian kỳ vọng của bạn càng ngắn
thì nguy cơ mất đi lòng dũng cảm và nhiệt huyết càng lớn. Bỏ qua câu hỏi liệu
phải mất ba hay bốn mươi vô số kiếp để đạt được giác ngộ, khi bạn vun trồng sâu
sắc những tình cảm mạnh mẽ như những tình cảm được nêu trong lời cầu nguyện của
Tịch Thiên,
Chừng nào
không gian còn tồn tại,
Chừng nào chúng sinh còn tồn tại,
Cho đến lúc đó, tôi cũng sẽ tồn tại
Và xua tan những đau khổ của thế gian,
Thời gian hoàn toàn không liên quan; bạn đang
suy nghĩ theo hướng vô tận. Hơn nữa, khi bạn đọc trong kinh điển Đại thừa những
đoạn văn liên quan đến việc thực hành cái gọi là nhẫn nhục như áo giáp của Bồ
tát, một lần nữa, thời gian không có ý nghĩa gì. Đây là những tình cảm vô cùng
truyền cảm hứng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét